GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Cấp Hai
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và chú thích bổ túc
| mục lục sách |
Bài 15
NĂM THỜI THUYẾT PHÁP của ĐỨC THÍCH TÔN, và MƯỜI HAI BỘ KINH
NĂM THỜI THUYẾT PHÁP
Sau khi thành Phật, đức Thích Tôn thuyết pháp bốn mươi chín năm(1), nói kinh hơn ba trăm hội, trong đó, vì để thích ứng với nhiều căn cơ, Ngài đã nói nhiều pháp môn. Đầu tiên, Ngài vì hàng Bồ-tát có cơ trí lớn, diễn nói pháp giới chân lí của thừa Hoa-nghiêm(2), để phù hợp với giềng mối của lưới pháp; trải qua bảy nơi chín hội(3), trong hai mươi mốt ngày, đó là thời thứ nhất: thời Hoa Nghiêm(4). Giáo lí Hoa Nghiêm sâu xa, hạng phàm phu không thể lĩnh hội, không giúp ích gì được cho kẻ có căn trí thấp kém, bởi vậy, sau khi nói kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã du hành trải khắp mười sáu nước trên toàn xứ Ấn-độ, suốt mười hai năm, nói pháp tiểu thừa. Trước hết, Ngài đến vườn Nai, gần thành Ba-la-nại, chuyển bánh xe pháp ba lần(5), nói giáo pháp Bốn Sự Thật, độ cho đoàn tì kheo gồm năm vị của tôn giả Kiều Trần Như(6) thoát vòng sinh tử; sau đó lại độ thoát cho các tôn giả Xá Lợi Phất1, Ca Diếp2, Mục Kiền Liên3, v.v… cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị4, đều qui y thánh đạo, đó là thời thứ nhì: thời A Hàm(7). Sau đó, tất cả những người nghe pháp đều đã có được lòng tin vững chắc, đức Phật mới nói cả pháp tiểu thừa lẫn đại thừa, nhưng thường thường trong những thời pháp, Ngài chê trách tiểu thừa và đề cao đại thừa, giúp cho những người căn tính chậm lụt phát khởi tư tưởng biết hổ thẹn với pháp tiểu thừa mà hâm mộ pháp đại thừa; thúc đẩy họ tiến lên địa vị Bồ-tát. Trong tám năm, Ngài đã nói các kinh Thắng Man5, Duy Ma6 v.v…, đó là thời thứ ba: thời Phương Đẳng(8). Đến đây, các hành giả tiểu thừa, trải qua thời gian tôi luyện trong giáo pháp đại thừa, căn tính đã trở nên thuần thục, đủ sức thọ nhận giáo lí Bát Nhã, cho nên, trong hai mươi hai năm tiếp theo, đức Phật đã nói các kinh thuộc bộ Bát Nhã như Đại Phẩm7, Quang Tán8, Văn Thù9, Thắng Thiên Vương10 v.v…, vừa tuyên thuyết giáo nghĩa “như thật không”11, giúp cho hành giả chứng ngộ lí lẽ “các pháp đều không”, do đó mà không nhàm chán sinh tử, cũng không ưa thích niết bàn, vĩnh viễn xa lìa mọi kiến chấp; lại vừa tuyên thuyết giáo nghĩa “như thật bất không”12, giúp cho hành giả thấu rõ trong tự tính vốn có đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh, phước trí trang nghiêm,
cùng với Phật không có gì sai khác, do đó mà không thối chí, Đó là thời thứ tư: thời Bát Nhã(9). Cuối cùng, ở núi Linh-thứu, Phật nói kinh Pháp Hoa, đem ba thừa13 thu vào một Phật thừa(10), qui các pháp phương tiện đã nói khi trước về một lẽ chân thật(11). Khi duyên hóa độ đã mãn, Ngài đến bờ sông Bạt-đề(12), trong rừng cây Ta-la, nói kinh Đại Bát
Niết Bàn trong một ngày đêm, dạy rõ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, và đều sẽ thành Phật. Đó là thời thứ năm: thời Pháp Hoa Niết Bàn(13). Có bài kệ rằng:
Hoa Nghiêm đầu tiên hăm mốt ngày; A Hàm mười hai; Phương Đẳng tám;
Hăm hai năm luận đàm Bát Nhã;
Pháp Hoa, Niết Bàn cộng tám năm.14
MƯỜI HAI BỘ KINH
Kinh giáo đức Thích Tôn nói trọn một đời, có thể phân làm mười hai loại, gọi là “mười hai bộ kinh”, cũng gọi là “mười hai phần giáo”. Một, Trường Hàng: Dùng văn xuôi nói thẳng pháp tướng, không hạn định chữ và câu, vì số hàng dài, nên gọi là “trường hàng”. Hai, Trùng Tụng: Đã thuyết “trường hàng” ở trước, lại dùng kệ tụng để đúc kết ở sau, ý nghĩa như trùng tuyên, cho nên gọi là “trùng tụng”. Ba, Cô Khởi: Không y nơi “trường hàng” mà thuyết thẳng câu kệ tụng, như kinh Pháp Cú chẳng hạn; vì không do từ văn xuôi, cho nên gọi là “cô khởi”. Bốn, Thí Dụ: Những ví dụ được nêu lên trong kinh. Năm, Nhân Duyên: Thuật lại các nhân duyên thấy Phật nghe pháp, hoặc những nhân duyên Phật thuyết pháp giáo hóa. Sáu, Vô Vấn Tự Thuyết: Như kinh A Di Đà, không có người hỏi mà đức Phật tự nói. Bảy, Bản Sinh: Kinh ghi chép lời Phật nói về những nhân duyên trong các kiếp quá khứ của chính Ngài. Tám, Bản Sự: Kinh ghi chép lời Phật nói về những nhân duyên trong các kiếp quá khứ của các đệ tử. Chín, Vị Tằng Hữu: Kinh ghi chép đức Phật thị hiện các loại thần lực không thể nghĩ bàn. Mười, Phương Quảng: Kinh ghi chép chân lí sâu xa rộng lớn do Phật nói. Mười một, Luận Nghị: Kinh chứa đựng những lời vấn đáp, nghị luận về giáo pháp. Mười hai, Kí Biệt (hay Thọ Kí): Đức Phật đối với các vị Bồ-tát hoặc chúng Thanh-văn, thọ kí sẽ thành Phật. Có bài kệ rằng:
Trường Hàng, Trùng Tụng, cùng Cô Khởi,
Thí Dụ, Nhân Duyên, và Tự Thuyết, Bản Sinh, Bản Sự, Vị Tằng Hữu, Phương Quảng, Luận Nghị, và Kí Biệt. (14)
CHÚ THÍCH
- Xá Lợi Phất: Tên người. “Xá Lợi”, dịch ra Hoa ngữ là “thu lộ”; “Phất”, dịch ra Hoa ngữ là “tử”. Vì bà mẹ của tôn giả có cặp mắt giống như mắt loài chim thu-lộ (một giống cò – HC), cho nên tôn giả được đặt tên là Xá Lợi Phất, hoặc Xá Lợi Tử; cũng gọi là Thân Tử. Tôn giả vốn là ngoại đạo, giữa đường thấy tì kheo Mã Thắng, oai nghi thù diệu, bèn xuất gia theo Phật, cùng với tôn giả Mục Kiền Liên là hai vị đệ tử lớn của Phật. Tôn giả thường đứng bên phải đức Phật. Tôn giả đã nhập diệt trước Phật.
- Ca Diếp: cũng gọi là Ma Ha Ca Diếp, là một trong mười vị đệ tử lớn của Phật. Thân ngài có ánh sáng vàng, sáng chói làm lu mờ các loại ánh sáng khác, cho nên cũng có tên là “Ẳm Quang”. Trong pháp hội Linh-sơn, ngài được đức Phật trao cho “chánhpháp nhãn tạng”, truyền cho “tâm ấn”, làm Sơ Tổ Thiền tông. Bình sinh tôn giả tu hạnh đầu đà, vâng di chúc của Phật, nhập diệt tận định ở núi Kê-túc, chờ cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời mà truyền lại cho Phật y “tăng-già-lê”.
- Mục Kiền Liên: Ban đầu cùng với Xá Lị Phất tu theo ngoại đạo, sau qui y theo Phật, cùng với Xá Lợi Phất là hai vị đệ tử lớn của Phật. Tôn giả thường đứng bên trái đức Phật. Về sau, vì nghiệp nhân đời trước, tôn giả bị nhiều ngoại đạo dùng gậy gộc đánh đập tử thương. Tôn giả đã nhập diệt trước Phật.
- 1.250 người: Thầy trò Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp gồm 500 người; thầy trò Già Da Ca Diếp 250 người; thầy trò Na Đề Ca Diếp 250 người; thầy trò Mục Kiền Liên 200 người; con của trưởng giả Da Xá cùng với bạn học 50 người; cả thảy là 1.250 vị tì kheo, nguyên trước đều tu theo ngoại đạo, sau đều qui y theo Phật; lại thêm năm vị tì kheo đầu tiên là Kiều Trần Như, Thập Lực Ca Diếp, Ngạch Bệ, Bạt Đề, Câu Lị, cộng tất cả là 1.255 vị tì kheo; nay bỏ đi số lẻ, chỉ nêu con số tròn, cho nên nói là “1.250 người”. Đó là số đệ tử thường tùy tùng bên cạnh đức Phật.
- Thắng Man: là tên gọi tắt của kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng, là bản dịch khác của pháp hội “Thắng Man Phu Nhân ”, quyển 48, kinh Đại Bảo Tích.
- Duy Ma: là tên gọi tắt của kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát.
- Đại Phẩm: tức kinh Đại Phẩm Bát Nhã, pháp sư Cưu Ma La Thập dịch, gồm 27 quyển.
- Quang Tán: tức kinh Quang Tán Bát Nhã Ba La Mật, pháp sư Trúc Pháp Hộ (đời Tấn) dịch, gồm 10 quyển.
- Văn Thù: tức kinh Văn Thù Bát Nhã.
- Thắng Thiên Vương: tức kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Đa, gồm 7 quyển.
- “Như thật” nghĩa là thật tướng chân như. Không phải giả gọi là “chân”; không thay đổi gọi là “như”; không hư dối gọi là “thật”. “Chân như” tức là tự tính thanh tịnh của tất cả chúng sinh; cũng gọi là “pháp thân, như lai tạng, pháp tánh, Phật tánh” v.v… Tự tính chân như này hoàn toàn không hư vọng, là tướng chân thật, cho nên nói là “thật tướng chân như”, hay nói tắt là “như thật”. Vì nó xa lìa tất cả mọi vọng nhiễm, xa lìa tất cả mọi tướng sai biệt, giống như hư không, không dính một hạt bụi nào, cho nên nói là “như thật không”.
- Thật tướng chân như tuy không còn vọng nhiễm, không dính một hạt bụi nào, nhưng nó thường hằng bất biến; vả lại, nó đầy đủ hằng sa công đức diệu dụng, không có tịnh pháp nào là không hàm chứa ở trong nó, cho nên nói là “như thật bất không”.
- Ba thừa: tức Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát.
- Đức Thích Tôn nói pháp bốn mươi chín năm. Bài kệ này nói năm mươi năm. Đây có lẽ là đem các tháng lẻ tính tròn một năm, cho nên đã dôi ra một năm.
PHỤ CHÚ
(01) Đức Thích Tôn thuyết pháp 49 năm: Theo niên đại cũ, đức Thích Tôn đi xuất gia lúc 19 tuổi, đến 30 tuổi thì thành đạo. Năm nhập diệt của Ngài, thuyết được công nhận nhiều nhất và phổ biến nhất là năm Ngài 80 tuổi. Vậy thời gian thuyết pháp độ sinh của Ngài là 50 năm. Nhưng cũng có nhiều kinh lại nói khác, như kinh Bát Nê Hoàn nói, Ngài nhập diệt năm 79 tuổi; kinh Bồ Tát Xử Thai nói, Ngài nhập diệt năm 84 tuổi; luận Đại Tì Bà Sa nói, Ngài trụ thế hơn 80 năm, v.v… Vậy thì, con số “49 năm thuyết pháp” đâu phải là một con số chính xác, hoàn toàn đúng! Cho nên, chú thích số 14 ở trên của tác giả là không cần thiết, vì, theo chú thích đó, chứng tỏ tác giả đã quá tin vào tính chính xác của con số “49” ấy. Theo quyết định thống nhất của Phật giáo quốc tế hiện nay, niên đại xuất gia của Phật được công nhận là năm 29 tuổi, thành đạo năm 35 tuổi, nhập diệt năm 80 tuổi. Vậy thời gian thuyết pháp độ sinh của Ngài, theo niên đại thống nhất này, là 45 năm. Dù sao, tất cả mọi danh ngôn, kể cả các con số, cũng chỉ là hư dối, do con người cùng nhau ước định; tuy nhiên, đúng theo tinh thần “thế giới tất đàn ”, việc gì đã cùng nhau chấp nhận thì nên cùng nhau thi hành cho thống nhất, thuận với lẽ đời, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
(02) Thừa Hoa-nghiêm: Giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm là giáo nghĩa nhất thừa, khác biệt với giáo nghĩa của kinh điển ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát); vì vậy mà gọi là thừa Hoa-nghiêm. Hoa-nghiêm thừa còn có nhiều tên gọi, như Thượng thừa, Vô-thượng thừa, Tối-thắng thừa, Bất-tư-nghị thừa v.v…
(03) Bảy nơi chín hội (thất xứ cửu hội): Ngài Trừng Quán (tức Thanh Lương quốc sư, 738-839) phân chia kinh Hoa Nghiêm làm 39 phẩm, Phật nói trong 9 pháp hội, tại 7 nơi. 1) Hội thứ nhất, tại Bồ-đề đạo tràng. 2) Hội thứ hai, tại điện Phổ-quang-minh. 3) Hội thứ ba, tại cung trời Đao-lị. 4) Hội thứ tư, tại cung trời Dạ-ma. 5) Hội thứ năm, tại cung trời Đâu-suất. 6) Hội thứ sáu, tại cung trời Tha-hóa-tự-tại. 7) Hội thứ bảy, tại điện Phổ-quang-minh lần thứ nhì. 8) Hội thứ tám, tại điện Phổ-quang-minh lần thứ ba. 9) Hội thứ chín, tại rừng Thệ-đa. – Vì có ba pháp hội nói tại một nơi (điện Phổ-quang-minh), nên chín pháp hội mà chỉ có bảy nơi.
(04) Thời Hoa Nghiêm: là một trong năm thời thuyết giáo của đức Thích Tôn, do tông Thiên Thai phân lập. Trong suốt thời gian 21 ngày sau khi thành đạo, đức Phật chỉ nói kinh Hoa Nghiêm. Giáo lí kinh này được gọi là loại giáo lí “nhật xuất tiên chiếu” (mặt trời mới mọc, chiếu sáng trước tiên vào những nơi cao và trực diện nhất), hoặc “nhật chiếu cao sơn” (mặt trời chiếu trên đỉnh núi cao), là giáo lí nhất thừa, khác biệt với giáo lí tam thừa, nhưng bao trùm cả tam thừa; đối tượng thuyết pháp gồm toàn chư vị Bồ- tát lớn và những phần tử ưu tú có cơ trí siêu việt, cho nên được tông Thiên Thai lập riêng ra một thời, gọi là thời Hoa Nghiêm. Đây là thời thuyết pháp đầu tiên sau khi thành đạo, đức Thích Tôn nói ngay về cái tuệ giác siêu việt của Phật mà Ngài vừa chứng được, để thử xem giáo pháp ấy có thích hợp với căn cơ của chúng sinh hay không, cho nên thời Hoa Nghiêm này cũng được gọi là thời “nghĩnghi” (nghĩa là thử nghiệm). Lại nữa, kinh Hoa Nghiêm gồm có hai phần: Phần trước gồm 38 phẩm đầu (từphẩm “Thế Chủ Diệu Nghiêm” đến phẩm “Li Thế Gian”), Phật nói ở 8 pháp hội, trong thời gian 21 ngày ngay sau khi thành đạo, thính chúng gồm toàn bậc trí tuệ thượng thừa, chưa có chúng Thanh-văn; Phần sau gồm 1 phẩm chót (phẩm 39, “Nhập Pháp Giới”), Phật nói ở pháp hội thứ 9, tại rừng Thệ-đa. “Thệ-đa” là tiếng phiên âm khác của “Kì-đà” (Jeta), vị thái tử con vua Ba Tư Nặc, nước Kiều-tát-la. Vậy, rừng Thệ-đa tức là vườn Kì-thọ-Cấp-cô-độc ở thành Xá-vệ, nơi có tu viện Kì-viên. Lúc tu viện này được xây dựng thì chúng Thanh-văn đã có rồi; vì vậy, khi Phật nói phẩm “Nhập Pháp Giới” cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm nơi rừng Thệ-đa, thì có sự hiện diện của các vị đại A-la-hán như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, v.v… trong pháp hội. Nhưng quí vị A-la-hán này vẫn không lĩnh hội được giáo nghĩa Hoa Nghiêm.
(05) Chuyển bánh xe pháp ba lần (tam chuyển pháp luân). (Xin xem lại phụ chú số 4, bài 17, sách GKPHI.)
(06) Kiều Trần Như: Về năm vị tì kheo nhóm Kiều Trần Như, xin xem lại phụ chú số 3, bài 17, sách GKPH I. Về sự tích tôn giả Kiều Trần Như, xin xem phần “Phụ Lục” sách Mười Vị Đệ Tử Lớn của Phật, Hạnh Cơ dịch, Chùa Liên Hoa & Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County in lần thứ tư tại California, năm 2005.
(07) Thời A Hàm: Theo sự phân lập của tông Thiên Thai, đây là thời kì thứ hai trong năm thời thuyết giáo của đức Phật. Sau thời Hoa Nghiêm, đức Phật đã lượng định được căn cơ của chúng sinh đương thời, cho nên trong 12 năm tiếp theo, Ngài đã du hóa khắp mười sáu nước lớn của xứ Ẳn-độ, giảng nói bốn bộ kinh A Hàm, giáo nghĩa thấp cạn, thích hợp với căn cơ tiểu thừa; ví như mặt trời lên hơi cao, chiếu xiên vào các hang hốc – thuật ngữ Phật học gọi là “nhật chiếu u cốc”. Trong suốt thời kì này đức Phật chỉ nói kinh A Hàm; lấy kinh làm tên, cho nên gọi là thời A Hàm. Thời này bắt đầu tại vườn Nai, cho nên cũng gọi là thời Lộc-uyển. về ý nghĩa, giáo pháp mà đức Thích Tôn tuyên thuyết trong thời kì này, mang tính chất phương tiện, để dắt dẫn những đối tượng có căn cơ thấp cạn, cho nên cũng được gọi là thời dụ dẫn (nghĩa là hướng dẫn làm cho ham thích).
(08) Thời Phương Đẳng: Đây là thời thuyết giáo thứ ba, tiếp theo thời A Hàm. “Phương đẳng” là chỉ cho loại giáo pháp có nghĩa lí sâu xa, rộng lớn, bình đẳng, nên cũng gọi là “phương quảng, đại phương quảng, hay đại phương đẳng”. Nói một cách chính xác, “phương đẳng” là giáo pháp đại thừa, là loại giáo pháp “nhật chiếu bình địa” (mặt trời lên cao hơn, chiếu xuống mặt đất bằng). Nếu nói chính xác hơn nữa, thì “phương đẳng” là buổi đầu của thời kì nói pháp đại thừa. Thời này kéo dài trong 8 năm, đức Phật đề cao giáo pháp đại thừa; khuyến khích mọi người từ bỏ thiên kiến cùng những tri kiến thấp cạn của tiểu thừa, dũng mãnh phát tâm tu học giáo pháp đại thừa.
(09) Thời Bát Nhã: Đây là thời thuyết giáo thứ tư (sau thời Phương Đẳng) của đức Phật, kéo dài trong 22 năm. Thời kì này Phật nói các bộ kinh thuộc hệ Bát Nhã, cho nên gọi là thời Bát Nhã. Nội dung thuyết giáo là nêu rõ tính không của vạn pháp, phá trừ pháp chấp của tiểu thừa, cùng sự phân biệt, thiên chấp giữa đại thừa và tiểu thừa, dung hợp hai thừa làm một; lại từ tính “không” dẫn tới tính “bất không” của lí trung đạo; ví như mặt trời ở vào lúc gần đúng ngọ (nhật chiếu ngung trung).
(10) Một Phật thừa (Nhất Phật thừa): Nhất Phật thừa, hay Nhất thừa, hay Phật thừa, là giáo pháp duy nhất đưa đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn, siêu việt, tối thượng của chư Phật; cũng gọi là giáo pháp liễu nghĩa thượng thừa, hay đệ nhất nghĩa đế.
(11) Một lẽ chân thật (nhất thật): chỉ cho lí chân thật, tuyệt đối, tức là thật tướng chân như. “Thật” nghĩa là không điên đảo, không hư dối, là thật tướng bình đẳng không hai. Dùng lí thể chân thật để giáo hóa chúng sinh, đem chúng sinh về đạo nhất thừa, gọi là “nhất thật giáo pháp”, “nhất thừa giáo pháp”, hay “nhất thật đế”.
(12) Sông Bạt-đề: là một trong hai con sông nhỏ ở Ẳn-độ, nhưng do có thánh tích của Phật mà được nổi tiếng. 1) Sông Ni-liên-thiền (Nairanjana, là một nhánh nhỏ của sông Hằng), nơi đó có núi Già-da, có rừng Khổ-hạnh, có cây Bồ-đề; là nơi đức Thích Tôn tu hành và thành đạo. 2) Sông Bạt-đề (Ajitavati), chảy qua rừng Câu-thi-na; đức Thích Tôn đã nhập diệt trên bờ sông này.
(13) Thời Pháp Hoa Niết Bàn: Đây là thời cuối cùng trong năm thời thuyết giáo của đức Thích Tôn, gồm 8 năm và một ngày đêm trước giờ phút nhập niết bàn. Trong thời kì này, đức Phật giảng nói hai bộ kinh Pháp Hoa và Niết Bàn, cho nên gọi là thời Pháp Hoa Niết Bàn. Giáo nghĩa của thời kì này là hiển dương tính rốt ráo của Phật thừa, khiến chúng sinh đều chứng nhập tri kiến Phật; cùng khẳng định tất cả chúng sinh vốn đều có tính giác, cho nên đều sẽ thành Phật – dù có phải đọa địa ngục Vô-gián hàng vô số kiếp, nhưng cuối cùng, chúng sinh ấy vẫn được thành Phật.
Kinh Đại Bát Niết Bàn (bản Bắc) đã đem tiến trình giáo hóa của đức Phật ví dụ như diễn tiến của sự tinh chế sữa tươi thành thực phẩm hay dược phẩm, theo đó: 1) Toàn thể lời Phật dạy được bao gồm trong Mười Hai Bộ Kinh – được ví dụ như thứ sữa nguyên chất mới vắt ra từ thân thể con bò (nhũ vị); 2) Từ Mười Hai Bộ Kinh rút ra phần cốt yếu là Khế Kinh (Tu-đa-la) – ví như từ sữa nguyên chất tinh chế ra chất “lạc” (lạc vị); 3) Từ Khế Kinh rút ra phần cốt yếu là các kinh Phương Đẳng – ví như từ chất lạc tinh chế ra chất “sinh tô” (sinh tô vị); 4) Từ kinh Phương Đẳng rút ra phần cốt yếu là các kinh Bát Nhã Ba La Mật – ví như từ chất sinh tô tinh chế ra chất “thục tô ” (thục tô vị); 5) Từ hệ Bát Nhã rút ra cốt yếu là kinh Niết Bàn – ví như từ chất thục tô tinh chế ra chất “đề hồ” (đề hồ vị); tất cả được gọi chung là “Niết Bàn ngũ vị” (năm mùi vị theo kinh Niết Bàn). Tông Thiên Thai lại đem thuyết “Niết Bàn ngũ vị ” này để phối hợp với trình tự năm thời thuyết giáo của Phật; theo đó: thời Hoa Nghiêm là nhũ vị; thời A Hàm là lạc vị; thời Phương Đắng là sinh tô vị; thời Bát Nhã là thục tô vị; và thời Pháp Hoa Niết Bàn là đề hồ vị. Lại nữa, trong kinh Hoa Nghiêm cựu dịch (do pháp sư Phật Đà Bạt Đà La, đời Đông-Tấn, dịch), có đưa ra thuyết “Hoa Nghiêm tam chiếu”, đem thứ lớp chiếu sáng của mặt trời ví dụ cho quá trình giáo hóa của đức Phật, theo đó, có ba giai đoạn: 1) Giai đoạn đầu, Phật giáo hóa cho hàng Bồ-tát, như mặt trời mới mọc, chiếu lên các đỉnh núi cao, gọi là “tiên chiếu cao sơn”; 2) Giai đoạn giữa, Phật giáo hóa cho hàng Duyên-giác, như mặt trời đã lên cao, chiếu sáng vào các hang hốc, gọi là “thứ chiếu u cốc”; 3) Giai đoạn sau, Phật giáo hóa cho hàng Thanh-văn và hạng người căn trí thấp kém, như mặt trời chiếu sáng khắp mặt đất bằng, gọi là “hậu chiếu bình địa”. Tông Thiên Thai lại dẫn thuyết “Hoa Nghiêm tam chiếu” này để đem phối hợp với năm thời thuyết giáo của đức Phật; theo đó: 1) Thời Hoa Nghiêm được ví với lúc mặt trời mới mọc, gọi là thời “nhật xuất tiên chiếu”, hay “nhật chiếu cao sơn”; 2) Thời A Hàm ví như mặt trời lên cao hơn, gọi là thời “nhật chiếu u cốc”; 3) Thời Phương Đắng ví như mặt trời đã lên thật cao trên bầu trời, gọi là thời “nhật chiếu bình địa”; 4) Thời Bát Nhã ví như mặt trời vào khoảng trước giờ ăn trưa, tức từ 9 tới 11 giờ (giờ Tị), gọi là thời “nhật chiếu ngung trung”, hay nói tắt là “ngung trung” (còn hơi xéo, tức trước giờ ăn trưa); 5) Thời Pháp Hoa Niết Bàn ví như mặt trời đứng bóng, tức giờ đúng Ngọ, gọi là thời “nhật luân đương ngọ”, hay nói tắt là “chánh trung” (ngay chính giữa, tức đúng giờ ăn trưa).
(14) Mười hai bộ kinh. (Xin xem thêm chú thích số 4, bài “Tổng Hợp yếu Chỉ các bài 4, 5 và 6, sách )
BÀI TẬP
- Do đâu mà có con số 1.250 vị tì kheo thường theo bên cạnh đức Phật?
- Giáo pháp Phật nói ở thời Phương Đẳng có tác dụng gì?
- Hãy giải thích các thuật ngữ “như thật không” và “như thật bất không”.
- Hãy viết ra bài kệ 4 câu 7 chữ nói về số năm đức Phật nói 5 thời pháp.
- Hãy giải thích thế nào là Bản Sinh, Bản Sự, Vị Tằng Hữu, và Kí Biệt.
- Hãy viết ra bài kệ 4 câu 7 chữ nói về 12 bộ kinh.
Tổng Hợp Yếu Chỉ Các Bài 13, 14 và 15
- Tu tập theo con đường tiểu thừa để chứng quả A-la-hán, cũng là điều tốt; tốt ở chỗ đã đoạn trừ cả kiến và tư hoặc, đã thoát li ba cõi, việc cần làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Nếu đứng trên hai phương diện “tự độ”, và “hết khổ được vui” mà nói, thì kể như tương đương với địa vị cứu cánh. Nhưng, nếu đứng trên ý nghĩa “thành Phật” mà nói, thì quí vị ấy chỉ mới đi được một nửa đường; vì rõ ràng là, đối với việc cứu độ người khác đang đắm chìm trong bể khổ não, họ hoàn toàn không nghĩ tới. Họ hoàn toàn không muốn tiến tới thêm một bước nào để phát tâm Bồ-tát, hầu chứng đạt quả vị vô thượng chánh giác. Bởi vậy, quí vị ấy thường bị chê trách là hạng “mầm cháy hạt mục”(1), “không kham bồi dưỡng”(2). Đó là chỗ yếu kém của các hành giả tiểu thừa. Nhưng, nếu hành giả ngán sợ con đường “ba kì”(3) quá xa, mà gấp phải tự độ, tạm thời hãy lấy quả vị A-la-hán làm mục tiêu trước nhất, dừng nơi “hóa thành”(4) nghỉ ngơi một thời gian, rồi lại lên đường đi tiếp; đó là hành động hợp lí, đâu có ai cho là không thích đáng! Căn khí(5) tuy rằng có đốn tiệm(6) khác nhau, nhưng đây chỉ là căn cứ vào một đời này mà nói, nếu nhìn suốt cả bao nhiêu đời trước nữa, thì cái “đốn” của đời này, sự thật là do những cái “tiệm” của nhiều đời trước tích lũy mà thành; nếu không có cái “tiệm” ấy của đời trước, thì cái “đốn” của ngày nay cũng không có; và nếu không có cái “tiệm” của ngày nay, thì cái “đốn” của ngày khác cũng sẽ không có. Tiểu thừa và đại thừa cũng vậy. Cuối cùng, khi tất cả chúng sinh đều thành Phật, thì không có đốn, không có tiệm, cũng không có tiểu, không có đại gì nữa.
- Người tu hành, ai cũng vốn có căn khí của mình, nhưng tông Pháp Tướng có đề ra thuyết “năm tánh”(7); – năm tánh là: định tánh Thanh- văn, định tánh Duyên- giác, định tánh Bồ-tát, bất định tánh, và vô tánh. Trong đó, ba loại định tánh Thanh-văn, định tánh Duyên-giác và vô tánh, đều không có chủng tử Phật, rốt ráo không thể thành Phật, cho nên gọi là “ba không” (tam vô); định tánh Bồ-tát và bất định tánh thì đều có chủng tử Phật, đều sẽ thành Phật, cho nên gọi là “hai có” (nhị hữu). Đối với thuyết “ba không hai có” này, quả thật tôi không dám tán đồng. Nếu sự thật có cái gọi là “định tánh”, thì rõ ràng là trái ngược với lời Phật dạy trong kinh Niết Bàn: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, trong đời vị lai đều sẽ thành Phật.”, hay: “Tất cả Bồ-tát, Thanh-văn, Duyên-giác, trong đời vị lai đều sẽ qui về cảnh giới đại niết bàn.”; mà trong pháp hội Pháp Hoa, rất nhiều đệ tử hàng Thanh- văn được đức Thế Tôn thọ kí thành Phật, sự việc ấy cũng trở thành hư dối? Quí vị hành giả khi nghiên cứu giáo lí, nếu phát hiện có điều gì giữa KINH và LUẬN không phù hợp nhau, thì thà y theo KINH chứ không y theo LUẬN; đó là quyết định vô cùng quan trọng. (8)
- Đọc các bộ kinh Bát Nhã, nếu chấp chặt vào nghĩa KHÔNG, rồi rơi vào chỗ trống rỗng (mọi thứ hoàn toàn đoạn diệt), như vậy người này đã không hiểu rõ “bát nhã” là gì! Nói thế là có ba lí do: Thứ nhất, khi thật sự đạt đến cái thấy “tất cả các pháp đều không”, tự nhiên sẽ hiểu rõ rằng, hễ có một sự vật thì không thể nói không, cho nên mới dám nói là KHÔNG(9); thứ nhì, trong kinh có lúc cũng nói đến “BÂT KHÔNG” (không phải không), như kinh Kim Cang nói: “Ngườiphát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, đối với các pháp, không nói tướng đoạn diệt(10).”, cho thấy, không phải hoàn toàn một mực nói KHÔNG; thứ ba, trong kinh Bát Nhã, khi nói đến “ĐỆ NHÂT NGHĨA KHÔNG”(11), thường thường đều dùng lối nói “song quan”(12) (như những câu: “chẳng phải được, chẳng phải không được”; “không tướng, không phải không tướng”; “không tăng, không giảm”;v…), để biểu ý chứng đạt ý niệm về thật tướng trung đạo(13). Thế mới biết, chứng đạt bản tánh không của các pháp, đó là trí bát nhã; ở trong cái bản tánh không của các pháp mà đoạn trừ phiền não, đạt đến cảnh giới niết bàn, cũng là trí bát nhã; chuyển bánh xe pháp để hóa độ chúng sinh, cũng là trí bát nhã; cho nên, nếu một mực chấp không, tức là rơi vào kiến chấp đoạn diệt của ngoại đạo.
- Các địa vị của tiểu thừa đều được bao hàm trong mười bậc Trụ của đại thừa. Theo giáo lí viên giáo(14), bậc Tín đầu tiên đã đoạn trừ kiến hoặc, tức tương đương với Tu-đà-hoàn; bậc Tín thứ bảy đã đoạn trừ tư hoặc, tức tương đương với A-la- hán(15); như thế thì quả vị cao nhất của tiểu thừa vẫn chưa sánh bằng với bậc Trụ đầu tiên của đại thừa! Từ phàm phu tu thành A-la-hán, lâu nhất cũng không hơn sáu mươi kiếp; tu thành Bích-chi Phật, lâu nhất cũng không hơn một trăm kiếp. Vậy mà đại thừa, mới chỉ tu tập hoàn tất cấp Mười-tín (tức bậc Trụ đầu tiên), đã phải trải qua một vạn đại kiếp, còn từ bậc Trụ thứ hai trở về sau thì không cần phải nói. Như thế có thể thấy, nếu so sánh quả vị Vô-học của tiểu thừa với quả vị Phật của đại thừa, khoảng cách thật quá xa. Quả pháp(16) đã có chỗ bất đồng, thì thời gian và phép tắc tu tập cũng khác nhau rất nhiều!
- Làm thế nào có thể phân biệt đâu là căn khí đại thừa và đâu là căn khí tiểu thừa? Vấn đề này, có thể căn cứ trên sự tình thực tế mà phân ra đại lược như sau: Thứ nhất, không nghĩ đến việc độ người, mà chỉ lo liễu ngộ phần mình, đó là tiểu thừa; trái lại, người phát tâm rộng lớn, muốn cứu độ cho mọi người, đó là đại thừa. Thứ hai, chỉ biết hành đạo, mà không thích nghiên tầm nghĩa lí, hoặc đối với nghĩa lí thì không thông hiểu, phần nhiều những người như vậy thuộc về tiểu thừa; trái lại thì thuộc về đại thừa. Thứ ba, đối với kinh giáo A Hàm thì thông hiểu, nhưng đọc các kinh Phương Đẳng, Bát Nhãv… thì không hiểu gì, đó là tiểu thừa; nhưng người không mãn ý với kinh giáo A Hàm, mà ham thích kinh giáo đại thừa, là thuộc về đại thừa. Lúc thường, kiến giải tầm thường, so với người tục thì không khác nhau nhiều lắm, đó là tiểu thừa; trái lại, người có kiến giải siêu phàm, khác xa người tục, đó là đại thừa.
- Kinh Niết Bàn có nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, trong đời vị lai đều sẽ thành Phật. Vậy, những vị được gọi là tiểu thừa, chẳng qua chỉ là nói cái tình trạng trước mắt, hoặc nhằm một thời kì nào đó mà thôi, chứ không có tính cách vĩnh cửu. Các hành giả tiểu thừa, nếu biết tự thẹn cho cái căn khí thấp kém của mình, sinh tâm mến mộ và muốn tu tập giáo pháp đại thừa, thì không gì tốt hơn là niệm Phật cầu sinh về tịnh độ! Tại vì, ở các cõi tịnh độ của chư Phật đều là hàng “bất thối chuyển”, không phải chỉ rất vui mà thôi. Tất cả Phật độ đã đều là bất thối, thì người tiểu thừa sinh về đó, tất phát tâm đại thừa. Có được trí tuệ đại thừa, tiến lên địa vị đại thừa, thì thành Phật còn là chuyện đương nhiên, huống gì làm Bồ-tát! Cho nên, tuy bây giờ trí tuệ cạn cợt, căn khí thấp kém, nhưng đến lúc đó thì bỗng nhiên bừng sáng! Trong luận Vãng Sinh có câu kệ rằng: “Trong cảnh giới đại thừa, giống nhị thừa dứt tuyệt.” Cho nên biết, ở thế giới Cực-lạc không có hạng tiểu thừa ngu pháp(17), khi đã sinh về thế giới ấy, tức thì đầy đủ căn khí đại thừa.
- Chúng ta quán sát hai quả vị tiểu thừa là Thanh-văn và Duyên-giác, cùng hai quả vị đại thừa Bồ-tát và Phật, những gì phải tu sửa, đều thuộc tâm pháp. Đức Phật biết rằng, sở dĩ chúng sinh lưu chuyển trong ba cõi, là vì tâm niệm đã bị vô minh làm cho nhiễm ô; cho nên, phương pháp đối trị để trở về với cảnh giới tịch diệt, cũng phải từ nơi tâm niệm mà dụng công. Đó là điều hợp lí. Ngoài cách thức đó, hoàn toàn không có cái gọi là “thể công”(18). Ngoại đạo thì không như vậy. Họ suy cứu những phương chước như “thủ khiếu, vận khí, tiểu châu thiên, đại châu thiên, hống, hỏa, luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần”(19); và cho rằng, tu luyện những phép ấy rồi thì có thể thoát trần. Không quan tâm tới tất cả kiến, tư, trần sa hoặc, cùng hai chấp ngã và pháp, tức là vấn đề chủng tử và tập khí trong thức thứ tám, cũng hoàn toàn không được nói tới. Giả sử, quả thật có thể “chín chuyển đan thành”(20), tên tuổi được nêu ở “phủ tía”(21); thì xin hỏi: cái đống rác(22) to lớn từ vô thỉ đến nay, đang nằm kẹt cứng trong ruộng thức, sau này sẽ đem đổ ở đâu? Nếu không tiêu trừ cho hoàn toàn sạch sẽ, thì làm sao mà thành đạo? Làm sao có thể vượt qua được các cửa ải tài, sắc, tham, sân, si, v.v…? Trong cái nhân đã không tu phúc, cũng không tu tuệ, thì trong tương lai, cái quả “phúc tuệ nhị nghiêm” từ đâu mà tới? Nếu không có phúc tuệ thì cùng với phàm phu có khác gì nhau! Chỉ cần hiểu rõ đạo lí này, chúng ta sẽ thấy rằng, chỉ tu luyện thể công mà không đoạn trừ phiền não, không bố thí, không giữ giới, hành giả nhất định sẽ không thoát khỏi ba cõi, không phá được lưới sinh tử. Sự thật cuối cùng vẫn là sự thật; dù có nói hay đến cách nào cũng chỉ là vô ích. Những người mê ngoại đạo, xin hãy tỉnh ngộ!
- Sau khi đức Thế Tôn nói kinh A Hàm, kế tiếp là nói kinh Phương Đẳng, để khuyến khích hàng Thanh-văn tiến lên địa vị Bồ-tát. Trải qua sự đào luyện, kết quả là, tôn giả Thiện Hiện(23) có thể nói kinh Bát Nhã; tôn giả Đại Ca Diếp được truyền tâm ấn; quí vị tôn giả như Phú Lâu Na cũng đều hồi tâm hướng về đại thừa, giúp Phật chuyển bánh xe pháp; đến cuối cùng thì có đến năm trăm vị đệ tử đều được thọ kí thành Phật, khiến cho cái học phong tiểu thừa đã khởi dậy cuộc chuyển biến lớn lao! Chúng ta xem thấy sự thật lột xác đó, thì biết rằng, thuyết “định tánh Thanh-văn” không thể tin được. So ra, thuyết nói về “chủng tánh vốn có” (bản tánh trụ chủng) và “chủng tánh tập thành”(24) (tập sở thành chủng), là có thể tin được.
CHÚ THÍCH (của người dịch)
(01) Mầm cháy hạt mục (tiêu nha bại chủng): Đây là một thành ngữ Phật học, dùng để chỉ cho hàng nhị thừa (Thanh-văn và Duyên-giác), không có khả năng phát tâm vô thượng bồ đề, chẳng khác gì mầm cây bị cháy khô, hay hạt giống bị hư mục. Kinh Duy Ma Cật nói: “Hàng nhị thừa giống như mầm cháy hạt mục, không thể phát đạo tâm vô thượng.”
(02) Không kham bồi dưỡng (bất kham tạo tựu): Trong Hán ngữ, từ “tạo tựu” có nghĩa là bồi dưỡng nhân tài. Câu “bất kham tạo tựu” là tiếp ý câu “tiêu nha bại chủng” ở trên, cũng có ý chỉ cho các hành giả hàng nhị thừa, vì căn tánh thấp kém cho nên không đủ sức lãnh thọ giáo pháp cao sâu của đại thừa.
(03) Ba kì: tức là ba a tăng kì kiếp, nghĩa là ba vô số kiếp; là thời gian tu hành của một vị Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến ngày thành Phật. Bồ-tát Địa-tiền tu tập trải qua bốn mươi bậc (gồm mười Tín, mười Trụ, mười Hạnh và mười Hồi-hướng) thì hoàn tất a tăng kì thứ nhất (sơ a tăng kì); Bồ-tát Địa- thượng, từ bậc Sơ-địa cho đến khi đạt được bậc Thất-địa thì hoàn tất a tăng kì thứ hai (nhị a tăng kì); từ bậc Bát-địa cho đến bậc Thập-địa thì hoàn tất a tăng kì thứ ba (tam a tăng kì).
(04) Hóa thành: Đây là một thuật ngữ Phật học, dùng để chỉ nơi tạm dừng chân nghỉ ngơi cho người đi đường xa, trước khi tiếp tục đi cho hết cuộc hành trình. Nguyên, “hóa thành” là một trong bảy thí dụ mà đức Phật từng nêu ra trong kinh Pháp Hoa – được gọi là “hóa thành dụ ”, nằm trong phẩm thứ bảy, “Hóa Thành Dụ”. (Hòa thượng Trí Quang, trong sách Pháp Hoa Lược Giải, gọi tên phẩm này là “Tương Quan Xa Xưa”.) Kinh chép, một vị đạo sư dẫn một đoàn người đi qua một đoạn đường dài và rất nguy hiểm, để đến một nơi có nhiều châu báu vàng ngọc. Nhưng mới đi được nửa đường thì đoàn người đã mỏi mệt, lại quá sợ hãi, cho nên chán nản, không muốn đi tiếp, chỉ muốn quay trở về. Vị đạo sư thương cảm, muốn trấn an và khuyến khích họ, đã dùng sức phương tiện, hóa ra một tòa thành, và bảo đoàn người: Không nên thối chí quay về, ở đây có tòa thành to lớn, xinh đẹp, đầy đủ tiện nghi, mọi người có thể ở lại đó mà an hưởng suốt đời, hoặc có thể nghỉ ngơi giây lát rồi tiếp tục đi đến chỗ có châu báu vàng ngọc. Đoàn người nghe thế thì rất vui mừng, nghĩ rằng mình đã vượt khỏi đoạn đường nguy hiểm, đã đến được nơi an toàn, bèn yên tâm ở lại trong thành. Qua một thời gian, vị đạo sư biết được mọi người đã hết mỏi mệt, hết sợ hãi, lòng đã phấn chấn trở lại, không còn muốn quay trở về nữa, bèn làm cho tòa thành biến mất, và bảo mọi người: Từ đây tới chỗ có châu báu vàng ngọc không còn bao xa nữa, hiểm nguy cũng hết rồi, vậy chúng ta hãy tiếp tục đi đến đó. Tòa thành vừa rồi chỉ là thành giả, do ta biến hóa ra mà thôi. Tòa “hóa thành” này được Phật dùng để thí dụ cho quả vị niết bàn của nhị thừa (Thanh-văn và Duyên-giác). Đó là loại niết bàn nửa chừng, không trọn vẹn, do đức Phật phương tiện chỉ bày. Bản ý của đức Phật là muốn cho tất cả đệ tử đều đạt được cảnh giới niết bàn trọn vẹn, quả vị vô thượng chánh đắng chánh giác – mà kinh Pháp Hoa gọi bằng một từ rất đặc biệt: “tri kiến Phật”.
(05) Căn khí: Chữ “căn” nghĩa là rễ; chữ “khí” nghĩa là đồ dùng. Rễ có khả năng làm cho cây cối sinh ra cành lá hoa trái; đồ dùng thì có thể chứa đựng hoặc dùng để làm bao nhiêu việc lớn nhỏ giúp ích cho đời sống. Do ý nghĩa đó, trong Phật học, hai chữ ấy được ghép lại, làm thành từ “căn khí”, để chỉ cho năng lực của người tu hành. Rễ cây có mạnh có yếu, dung lượng của đồ dùng có ít có nhiều; năng lực tiếp thọ Phật pháp của người tu hành cũng giống như vậy, có cao có thấp, có lớn có nhỏ, có mạnh có yếu, có nhanh có chậm.
(06) Đốn – tiệm: Trong Hán ngữ, chữ “đốn” có nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là tức thì; chữ “tiệm” nghĩa là dần dần. Riêng trong Phật học, hai chữ này là hai thuật ngữ quan trọng, rất thường xuất hiện trong các kinh luận Phát triển (đại thừa), dùng để chỉ cho hai loại căn tánh đối nghịch nhau của hai hạng người. “Đốn” là loại căn tánh thông minh, mẫn tuệ; hạng người có loại căn tánh đó, gọi là “đốn căn, đốn cơ, hay lợi căn, thượng căn”. Trái lại, “tiệm” là loại căn tánh trì trệ, kém sáng suốt; hạng người có căn tánh này, gọi là “tiệm căn, tiệm cơ, hay độn căn, hạ căn”. Vì có hai hạng người với hai loại căn tánh khác nhau như vậy, đức Phật đã phải nói hai loại giáo pháp khác nhau, để cho hạng người nào cũng được cứu độ. Giáo pháp dành cho hạng đốn căn, gọi là “đốn giáo”; dành cho hạng tiệm căn, gọi là “tiệm giáo”. Hạng người đốn căn thì đoạn trừ phiền não nhanh chóng, gọi là “đốn đoạn”; hạng tiệm căn thì đoạn trừ phiền não từ từ, gọi là “tiệm đoạn”. Hạng đốn căn, nghe pháp thì giác ngộ lập tức, gọi là “đốn ngộ”; hạng tiệm căn thì phải tu tập dần dà theo thứ lớp, trải một thời gian dài mới giác ngộ, gọi là “tiệm ngộ”.
(07) Năm tánh (hay năm chủng tánh): Theo tông Pháp Tướng, tính chất hạt giống (chủng tánh) của các loài hữu tình được phân làm năm loại. Tùy theo năm loại chủng tánh đó mà biết được loại nào có thể thành Phật, loại nào không thể thành Phật. 1) Định tánh Thanh-văn, là loại hữu tình vốn có hạt giống vô lậu có thể chứng quả A-la-hán. 2) Định tánh Độc-giác (hay Duyên-giác), là loại hữu tình vốn có hạt giống vô lậu có thể chứng quả Bích-chi Phật. Hai loại chủng tánh này vốn chỉ có hạt giống vô lậu về “sinh không” (tức chứng ngộ lí ngã không), chán ghét sinh tử, chuyên tu tự lợi, đoạn phiền não chướng, chứng nhập niết bàn. Cả hai là căn cơ nhị thừa (Thanh-văn và Duyên-giác), cho nên cũng được gọi là “nhị thừa định tánh”. Vì không có hạt giống Phật, cho nên cả hai không thể thành Phật. 3) Định tánh Bồ- tát, là loại hữu tình vốn có hạt giống vô lậu có thể chứng quả Phật. Loại chủng tánh này vốn có hạt giống vô lậu về “sinh pháp nhị không” (tức chứng ngộ lí ngã không và pháp không), tu tập cả hai hạnh tự lợi và lợi tha, đoạn trừ cả phiền não chướng và sở tri chướng, chứng ngộ diệu lí hai không, đạt quả vị đại giác viên mãn (tức quả Phật). Cả ba loại chủng tánh trên đây (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát), vì mỗi chúng tánh chỉ có một loại hạt giống (chủng tử) duy nhất, cho nên gọi là “định tánh”. Gộp cả ba loại, gọi là “tam thừa định tánh”. 4) Bất định tánh, cũng gọi là “tam thừa bất định tánh” (đối lại với “tam thừa định tánh” ở trên), là loại hữu tình vốn có đủ cả hai hay ba loại hạt giống vô lậu. Vì có các loại hạt giống vô lậu sai khác nhau như thế, mà cả ba cỗ xe (Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát) đều không thể quyết định là thuộc loại chủng tánh nào; do đó gọi là “bất định tánh”: có bốn loại: (a) Hai tánh bất định Bồ- tát và Thanh-văn, có đủ hai loại hạt giống Phật và A-la-hán; (b) Hai tánh bất định Bồ-tát và Độc-giác, có đủ hai loại hạt giống Phật và Bích-chi Phật; (c) Hai tánh bất định Thanh-văn và Độc-giác, có đủ hai loại hạt giống A-la-hán và Bích-chi Phật; (d) Ba tánh bất định Thanh-văn, Độc-giác và Bồ-tát, có đủ ba loại hạt giống A-la- hán, Bích-chi Phật và Phật. Vì không quyết định thuộc loại chủng tánh nào (bất định tánh), cho nên ở cả bốn loại trên đây, không những là Bồ-tát, mà cả Thanh-văn và Duyên-giác đều có thể tu tập hạnh Bồ-tát để chứng đạt quả Phật (khác với “nhị thừa định tánh” ở trên). 5) Vô tánh, cũng gọi là “nhân thiên thừa tánh”, là loại hữu tình vốn chỉ có loại hạt giống hữu lậu để thành Người hoặc Trời, không có hạt giống vô lậu của ba loại chủng tánh ở trên. Vì chỉ có loại hạt giống hữu lậu, nên loại chủng tánh này không thể có được trí tuệ xuất thế, không thể giải thoát sinh tử, chỉ tu tập các thiện nghiệp thuộc thế gian để có được các quả báo thiện ở cõi Người hay cõi Trời mà thôi.
(08) Về thuyết “năm chủng tánh” của tông Pháp Tướng trên đây, mới xem qua, như tác giả đã nói, thì hắn là không phù hợp với lời dạy của đức Phật trong kinh Niết Bàn. Bởi vậy, tác giả đã không đồng ý với thuyết đó; đồng thời cũng khuyên chúng ta không nên nghe theo luận cứ đó của tông Pháp Tướng. Chúng tôi xin mạn phép trình bày thiển ý như sau: Trước hết, thuyết “năm chủng tánh”, tuy nói đó là chủ trương của tông Pháp Tướng, nhưng sự thật là đã được rút ra từ kinh Lăng Già Tâm Ân (tức Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh). Quyển hai của kinh này nói: “Lại nữa, này Đại Tuệ, có năm chủng tánh vô gián. Những gì là năm? Đó là: Chủng tánh vô gián Thanh-văn thừa, chủng tánh vô gián Duyên-giác thừa, chủng tánh vô gián Như-lai thừa, chủng tánh bất định, và chủng tánh các biệt.” (Chủng tánh “vô gián Như-lai thừa” ở đây tức là loại “định tánh Bồ-tát ở trên; chủng tánh “các biệt” tức là loại “vô tánh” hay “nhân thiên thừa tánh” ở trên.) Thiền sư Hàm Thị giải thích: “Vô gián là pháp tánh không gián đoạn, mà chủng tử và hiện hành mỗi loại có khác. ( ) Năm chủng tánh tuy khác mà đồng một pháp tánh. Kinh
Niết Bàn nói: Xiển-đề đều có Phật tánh, nếu phát lòng tin thì không gọi là xiển-đề. (……. ) Nói chủng tánh
sai biệt, vốn vì người mới vào hàng Bồ-tát, khuyên họ tiến lên quả vị cứu cánh, chẳng để họ rơi vào tiểu thừa hay quyền thừa, mà còn khuyến dụ hàng tiểu thừa và quyền thừa phát tâm đại thừa; chứ không phải bảo rằng, chủng tánh quyết không thể thay đổi.” Kinh Lăng Già là một trong sáu kinh căn bản làm chỗy cứ lập tông cho tông Pháp Tướng, cho nên không thể nói có sự “không phù hợp giữa KINH và LUẬN” như tác giả đã cảnh cáo. Thứ nữa, thực tế là chúng sinh có nhiều căn cơ cao thấp khác biệt, cho nên đức Phật cũng tùy theo từng căn cơ mà nói pháp, để cho mọi người đều được hóa độ. Bởi vậy, việc phân biệt có “năm chủng tánh” như trên kia, cũng là vì mục đích tùy cơ hóa độ. Trong các tông phái đại thừa, tông Pháp Tướng được coi thuộc loại “quyền đại thừa” (chưa hoàn toàn là đại thừa), thì việc dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa một cách tiệm tiến, là lẽ đương nhiên; cuối cùng thì tất cả chủng tánh đều sẽ thành Phật, như ngài Hàm Thị vừa nói ở trên. Việc phân biệt hữu tình có “năm tánh” đúng là nhằm mục đích đó. Vậy thì, thuyết “năm chủng tánh” của tông Pháp Tướng không có gì là trái ngược với kinh điển, như tác giả đã cảnh giác. Những điều tác giả trình bày trong đoạn 6 ở sau, cũng cùng ý nghĩa này mà thôi.
(09) Ý nghĩa của câu nói này là: Bản chất của vạn pháp vốn là không thật, cho nên nói là không. Như vậy, khi hành giả đã đạt được trí tuệ, nhìn thấy “vạn pháp đều không”, thì chắc chắn không có một vật gì là thật có; cho nên mới quả quyết nói là “không”.
(10) Tướng đoạn diệt: tức là sự mất hắn, là trạng thái trống rỗng.
(11) Đệ nhất nghĩa không: tức là thật tướng của vạn pháp, cũng tức là cảnh giới niết bàn của đại thừa. “Đệ nhất nghĩa” là nghĩa lí tuyệt đối, hơn hết, trên hết, vi diệu nhất. Tính KHÔNG của vạn pháp, theo cái thấy của trí tuệ siêu việt, không phải là ý nghĩa “không” bình thường của thế tục quan niệm, để đối lại với “có”. Tính KHÔNG của vạn pháp tức là TƯỚNG CHÂN THẬT của vạn pháp, không phải thường còn, không phải đoạn diệt; không phải có, không phải không có; không phải có tướng, không phải không có tướng; không sinh, không diệt; không tăng không giảm; v.v… Đó là “đệ nhất nghĩa không”.
(12) Song quan: là một phương pháp hành văn, nói hay viết một câu gồm có hai ý trái ngược nhau, như: không sinh không diệt; không đến không đi; không trái không phải; cũng có cũng không; cũng tốt cũng xấu; v.v… Trong quyển Từ Điển Hán Việt Hiện Đại do Nguyễn Kim Thản chủ biên, từ “song quan” này được giải nghĩa là “chơi chữ”, không đúng lắm. “Chơi chữ” là nói một chữ mà hàm hai hoặc nhiều ý nghĩa, ai muốn hiểu sao cũng được. Ví dụ câu nói: “Anh ăn kẹo nhiều quá!”. Trong câu nói này có chữ “kẹo”, có nghĩa là viên kẹo, mà cũng có nghĩa là keo kiệt. Cho nên, thay vì nói thắng là “Anh keo kiệt quá!”, thì lại nói “xéo” đi: “Anh ăn kẹo nhiều quá!”; đó gọi là “chơi chữ”.
(13) Thật tướng trung đạo: “Thật tướng” là tướng chân thật của vũ trụ vạn hữu; “trung đạo” là con đường chính giữa, tức không nghiêng về một bên nào, không cố chấp vào một quan điểm cực đoan nào (như: có và không; nhiều và ít; thường và đoạn; v.v…). Trong tư tưởng đại thừa, “trung đạo” còn biểu thị cho tướng chân thật của vũ trụ vạn hữu (như nói rằng: thật tướng của vạn pháp là không có không không; không sinh không diệt; không thêm không bớt; không lớn không nhỏ; không nhiều không ít; v.v…); như vậy, thật tướng tức là trung đạo, trung đạo tức là thật tướng; cũng tức là “thật tướng trung đạo” (trung đạo thật tướng).
(14) Viên giáo: là loại giáo pháp rốt ráo, viên mãn; đó là giáo lí nhất thừa, cho nên cũng gọi là “nhất thừa viên giáo”. Giáo pháp này nói biển tánh là viên dung, tùy duyên mà khởi thành pháp giới vô tận; vì vậy, cái này và cái kia là vô ngại; cái này tức là cái kia, cái kia tức là cái này; cái này ở trong cái kia, cái kia ở trong cái này; một vật là tất cả vật, tất cả vật là một vật; v.v… Ngài Tuệ Quang (468-537) đời Bắc- Ngụy (386-534) đã phân toàn bộ nội dung giáo điển làm ba loại: tiệm giáo, đốn giáo và viên giáo. Ngài Trí Khải (538-597) đời Tùy (581-619) lại đem nội dung giáo điển phân làm bốn loại: tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, và viên giáo. Ngài Pháp Tạng (643-712) đời Đường (618-907) lại phân giáo điển làm năm loại: tiểu thừa giáo, đại thừa thỉ giáo, đại thừa chung giáo, đốn giáo, và viên giáo.
(15) Câu này tác giả muốn đề cập tới giáo lí “lục tức” của tông Thiên Thai. Theo kinh Hoa Nghiêm, quá trình tu tập của hàng Bồ-tát gồm có 52 bậc: 10 bậc Tín, 10 bậc Trụ, 10 bậc Hạnh, 10 bậc Hồi-hướng, 10 bậc Địa, bậc Đắng-giác, và bậc Diệu-giác (tức quả Phật). Tông Thiên Thai của Trung-quốc lấy đó làm “hành vị ” (địa vị tu hành) của “Bồ-tát biệt giáo” (pháp môn riêng biệt của Bồ-tát, không cùng thông với Thanh-văn và Duyên-giác); lại lập ra sáu hành vị đặc biệt khác nữa cho “Bồ-tát viên giáo” (giáo lí viên đốn thượng thừa, không tiệm tiến như giáo lí biệt giáo), và phối hợp 52 bậc với 6 hành vị này, gọi là giáo lí “lục tức”. “Tức” tức là “tương tức” (tức là nhau); ở đây là tương tức với chân lí, thành một thể với chân lí, gồm có sáu giai đoạn, cho nên gọi là “lục tức”; lại tương tức với Phật, thành một thể với Phật, gọi là “lục tức Phật”. 1) Về lí, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều trụ nơi Phật tánh, cùng với Như Lai không hai, không khác, đều tức là Phật; đó gọi là “lí tức”, và cũng là “lí tức Phật” (Phật trên lí thuyết). 2) Có người nhờ nơi thiện tri thức, hoặc do xem kinh điển mà biết đến quả bồ đề chân thật, rồi bằng vào danh ngôn, khái niệm mà thông hiểu rõ ràng giáo nghĩa “tất cả các pháp đều là Phật pháp”; đó gọi là “danh tự tức”, và cũng là “danh tự tức Phật” (Phật ở danh tự). 3) Người đã bằng vào danh tự, khái niệm mà thông hiểu tất cả các pháp đều là Phật pháp, tiến thêm một bước, y cứ nơi giáo pháp mà quán chiếu (quán), tu hành (hành), khiến cho tâm sáng tỏ, trí tuệ tương ưng với chân lí, quán và hành là một, lời nói và việc làm nhất trí; đó gọi là “quán hành tức”, và cũng là “quán hành tức Phật” (Phật ở giai đoạn đang còn tu tập). 4) Hành giả ở giai đoạn “quán hành tức” trên đây, càng tu tập chuyên tinh thì tâm càng tịch tĩnh, càng quán chiếu thâm sâu thì trí càng sáng tỏ, sáu căn thanh tịnh, đoạn trừ kiến tư hoặc, chế phục vô minh, tuy chưa thật chứng chân như, nhưng tợ hồ như thật chứng; đó gọi là “tương tợ tức”, và cũng là “tương tợ tức Phật” (tợ hồ như Phật). Giáo lí viên giáo liệt giai đoạn này tương đương với địa vị Mười-tín. 5) Từ đây, trải qua 41 bậc (Mười-trụ, Mười-hạnh, Mười-hồi-hướng, Mười- địa, và Đắng-giác), còn 41 phẩm vô minh, Bồ-tát tuần tự đoạn trừ từng phẩm vô minh để chứng đắc từng phần thật tướng trung đạo; đó gọi là “phần chứng tức”, và cũng là “phần chứng tức Phật” (Phật từng phần). 6) Khi đã đạt đến bậc Đắng-giác, Bồ-tát đoạn trừ một phẩm vô minh cuối cùng là “nguyên phẩm vô minh” (xem lại chú thích số 11, bài 1, sách GKPHI), hiển lộ tuệ giác rốt ráo, viên mãn, siêu việt, chứng nhập cực quả Diệu-giác, tức địa vị Phật-đà; đó gọi là “cứu cánh tức”, và cũng là “cứu cánh tức Phật” (Phật toàn giác).
Trong sáu giai đoạn trên, tuy có khác nhau về tên gọi, về pháp môn sâu cạn, về trình tự tu chứng, nhưng thể tánh là một, không hai; địa vị này tức là địa vị kia, cho nên gọi là “tức”. “Lí” tức là “danh tự”, tức là “quán hạnh”, tức là “tương tợ”, tức là “phần chứng”, tức là “cứu cánh”. Việc phân định làm “sáu” địa vị là cốt biểu thị cái trật tự cao thấp, khiến cho hành giả không sinh tâm ngạo mạn trong lúc tu tập; và nêu lên chữ “tức” là biểu thị lí thể từ chúng sinh đến Phật hoàn toàn tương đồng, khiến cho hành giả không nản lòng thối chí trong lúc tu tập. Đó là ý nghĩa của giáo lí “lục tức”.
Lại nữa, trong sáu giai đoạn này, ở giai đoạn thứ tư (tương tợ tức Phật), hành giả đã tu tập hoàn tất mười bậc Tín, đoạn trừ kiến tư hoặc, thoát li ba cõi, tương đương với bậc A-la-hán của Thanh-văn thừa. Đó là điều tác giả muốn nói đến trong đoạn trên.
(16) Quả pháp: Pháp bảo (trong Tam Bảo) được chia làn bốn pháp: giáo pháp, lí pháp, hành pháp, và quả pháp; gọi là “bốn pháp bảo” (tứ pháp bảo). “Giáo pháp” là những lời dạy của chư Phật ba đời; “lí pháp” là nghĩa lí được giảng giải từ giáo pháp; “hành pháp” là y theo lí pháp mà tu hành các pháp môn giới, định, tuệ, v.v… để gây nhân; “quả pháp” là chứng quả niết bàn tịch tịnh khi đã tu nhân viên mãn. Chư Phật ba đời y theo bốn pháp này mà tu hành, đoạn sạch phiền não, chứng quả vô thượng bồ đề. Chư Phật cũng dùng bốn pháp này để dắt dẫn chúng sinh tu hành, thoát li sinh tử, đến bờ giải thoát. Vậy, những quả vị mà hành giả tu chứng như A-la-hán, Bích-chi Phật, Thập-tín, Thập-trụ, v.v… đều là “quả pháp”, là điều mà tác giả muốn nói ở đoạn trên.
(17) Tiểu thừa ngu pháp: Thông thường, tiểu thừa là chỉ cho Thanh-văn thừa; trung thừa là chỉ cho Duyên-giác thừa; và đại thừa là chỉ cho Bồ-tát thừa. Nhưng ở đây, từ “tiểu thừa” được dùng để chỉ cho cả hai thừa Thanh-văn và Duyên-giác; đối lại là “đại thừa”, tức Bồ-tát thừa. Các kinh luận đều nói rằng, hai hàng Thanh-văn và Duyên-giác, vì không tin nhận, không kham nổi giáo pháp đại thừa, cho nên bị gọi là “tiểu thừa ngu pháp”, hay “nhị thừa ngu pháp”. Cả hai thừa này chỉ liễu ngộ lí “ngã không” (cũng gọi là “sinh không”, tức là NGÃ không thật có), mà vẫn cố chấp tà kiến “pháp hữu” (cho PHÁP là thật có). Họ thấy rằng, con người (ngã, hay sinh) do tứ đại giả hợp, cho nên không thật có, nhưng tứ đại (pháp) là thật có. Vì họ không chứng ngộ được lí “nhị không” (cả ngã và pháp đều không) của đại thừa, nên gọi là “ngupháp”. – “Ngupháp” nghĩa là không hiểu được lí lẽ “pháp không thật có”.
(18) Thể công: Chúng tôi không tìm thấy từ “thể công” này trong các bộ từ điển Hoa cũng như Việt. Nhưng, cứ theo ý tứ tác giả ở trong đoạn này, từ “thể công” có thể hiểu là công phu rèn luyện nhằm vào thể lực (mà không nhằm vào tâm linh). Nói thắng ra, đó là con đường tu luyện của đạo Lão, với mục đích cuối cùng là được “trường sinh bất tử”, thành tiên.
(19) Đây là những phép tu luyện của Đạo giáo (người theo đạo Lão), mục đích là để được “thành tiên” (xuất trần).
(20) Chín chuyển đan thành (cửu chuyển đan thành): Chữ “chuyển” ở đây nghĩa là biến hóa tuần hoàn; chữ “đan”, hay “kim đan”, hoặc “đan sa” là loại thuốc tinh chế của Đạo giáo. Đạo giáo có thuật “luyện đan”: Dùng đan sa luyện thành thủy ngân; rồi lại luyện thủy ngân ấy trở lại thành đan sa. Thời gian luyện càng lâu thì số lần “chuyển” như thế càng nhiều, và càng tốt; chuyến được đến chín lần là quí nhất, gọi là “cửu chuyển đan thành”.
(21) Phủ tía (tửphủ): Đạo giáo gọi nơi tiên ở là “phủ tía”.
(22) Đống rác: chỉ cho vô minh phiền não.
(23) Thiện Hiện: là dịch ý từ tiếng Phạn “Subhuti”, tức tên của tôn giả Tu Bồ Đề, một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật. Tôn giả là con của một gia đình Bà-la-môn ở thành Xá-vệ. Ngài vốn là bậc có trí tuệ hơn người, nhưng tính tình nóng nảy, bị bạn bè chán ghét, bèn vào núi ở ẩn; rồi được sơn thần dẫn đường tìm đến chỗ Phật ngự. Ngài được Phật chỉ dạy cho biết cái hại của tâm nóng giận, nhân đó mà ăn năn sám hối tội lỗi, dốc lòng tu tập, và chứng quả A-la-hán. Vì vốn có trí tuệ lỗi lạc, tôn giả đã mau lẹ chứng ngộ lẽ KHÔNG, trở thành đương cơ của đức Phật trong các pháp hội Bát Nhã; được mọi người xưng tụng là bậc “giải không đệ nhất” trong giáo đoàn. (Xin xem sự tích đầy đủ hơn về tôn giả Tu Bồ Đề, trong sách Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật, Hạnh Cơ dịch, đã dẫn trên.)
(24) Chủng tánh vốn có (bản tánh trụ chủng) và chủng tánh tập thành (tập sở thành chủng): Thuật ngữ Phật học có từ “tánh tập nhị tánh”, nghĩa là, hai loại chủng tánh: tánh và tập. Đó là hai loại chủng tánh đại thừa, là bản tánh có khả năng chứng quả bồ đề: 1) Loại chủng tánh vốn có đầy đủ từ vô thỉ, dù trải qua bao kiếp sinh tử luân hồi, vẫn tồn tại, không mất; thuật ngữ Phật học gọi là “bản tánh trụ chủng tánh”, hay “bản tánh trụ chủng”; nói tắt là “tánh chủng tánh”, hoặc “tánh chủng”. 2) Loại chủng tánh mới được huân tập về sau, do công đức tu thiện nghiệp trải qua bao đời mà có được; thuật ngữ phật học gọi là “tập sở thành chủng tánh”, hay “tập sở thành chủng”; nói tắt là “tập chủng tánh”, hoặc “tập chủng”.
| mục lục sách | bài tiếp theo |