GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Cấp Hai
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và chú thích bổ túc
| mục lục sách |
GIÁO KHOA PHẬT HỌC CẤP HAI
(quyển hạ)
| bài 22 |
Thành Kính Tưởng Niệm
Cố Hòa Thượng Luật Sư THÍCH ĐỖNG MINH (1927-2005)
(Nguyên Tưởng Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam, Người đã khởi xướng, chỉ đạo,
khích lệ cho công trình biên dịch bộ sách GIÁO KHOA PHẬT HỌC này)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính lạy
Giác Linh Hòa Thượng THÍCH ĐỖNG MINH
Kính bạch Thầy,
Giữa năm 1997, được Thầy tín nhiệm giao cho công việc dịch bộ PHẬT HỌC GIÁO BẢN (nguyên tác Hán văn của Phương Luân cư sĩ ở Đài-loan) ra Việt văn, chúng con không lượng sức mình, đã vui mừng nhận lãnh không chút e dè.
Vào mùa Phật Đản năm Mậu-Dần (1998), sau khi đã có được bộ Phật Học Giáo Bản (nguyên tác) và các tài liệu cần thiết tạm đủ để tham khảo, chúng con liền bắt tay ngay vào công việc.
Nhìn vào bộ sách nguyên bản Hán văn, chừng 600 trang cho cả 3 tập (3 cấp), chúng con nghĩ, cùng lắm là trong 3 năm thì công việc sẽ hoàn tất. Vậy mà, khi đã thực sự đi vào công việc, mới thấy thực tế không giản dị như chúng con đã nghĩ.
Nhưng dù sao, chúng con cũng cố gắng hết sức để hoàn tất bộ sách càng sớm càng tốt, như lời dạy của Thầy. Thế mà cũng phải đến cuối mùa An-cư năm 2002, sau khi Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam đã được thành lập, thì tập đầu tiên của bộ sách, GIÁO KHOA PHẬT HỌC Cấp Một (gồm 3 bản khác nhau: Giáo Thọ, Học Chúng và Cư Sĩ) mới xuất bản được! Dù chậm, nhưng Thầy vẫn vui với thành quả bước đầu ấy của chúng con.
Rồi mãi hai năm sau, đến mùa An-cư năm 2004, chúng con mới gửi về Thầy bản thảo tập GKPH Cấp Hai, nhưng chỉ mới hoàn tất một nửa, tức quyển thượng. Chúng con tự thấy mình làm việc chậm chạp, lòng rất áy náy, và sốt ruột vô cùng; nhưng vì thông cảm cho hoàn cảnh của chúng con, Thầy vẫn hoan hỉ, đã không phiền hà lại còn khích lệ.
Tuy Thầy và chúng con đang ở cách xa nhau đến nửa vòng trái đất, nhưng giữa Thầy trò vẫn thường liên lạc với nhau đều đặn, thư qua thư lại, thư điện thư tay, cả một biển Thái-bình tươi nhuần đạo vị… Và trong khi chúng con đang an vui tinh tấn, tiếp tục làm phần hai (tức quyển hạ) của tập GKPH Cấp Hai, thì tháng 4 năm nay, chúng con nhận được tin Thầy ngã bệnh!
Từ đó, một mặt chúng con luôn mong ngóng tin Thầy lành bệnh, một mặt chúng con tâm niệm phải cố gắng làm việc tích cực hơn nữa, để mong sao Thầy có thể trông thấy toàn bộ sách được hoàn thành trọn vẹn. Nhưng, thôi rồi, bản thảo phần hai của tập Cấp Hai vừa mới nửa chừng, thì, vào lúc 5 giờ sáng ngày 17 tháng 6 (giờ miền Núi Canada), chúng con nhận được điện thoại từ Đại Đức Thích Nguyên An, báo tin Thầy vừa viên tịch!!!
Chúng con thật bàng hoàng, xúc động, ngồi yên lặng không biết bao lâu, hình ảnh Thầy đầy ắp không gian…
Chúng con ân hận và tủi hổ biết bao, vì đã không đáp ứng được lòng trông đợi của Thầy, đã không hoàn thành trọn vẹn công việc Thầy giao phó trong khi Thầy còn tại thế!
Thầy ra đi, để lại trong lòng chúng con một sự hụt hẫng, một nỗi mất mát quá to lớn! Đã mấy tháng trôi qua mà lòng vẫn còn trống vắng, buồn tủi chưa khuây! Lòng nhớ nghĩ đến Thầy không phút nào nguôi. Và càng nhớ nghĩ đến Thầy, chúng con càng cố gắng làm việc, trước là thù báo ơn Phật, sau là đền đáp công ơn khai hóa, dạy dỗ, dìu dắt của Thầy.
Hôm nay chúng con vừa hoàn tất quyển hạ tập Giáo Khoa Phật Học Cấp Hai, chúng con vội viết mấy dòng này kính trình Thầy, gọi là dâng lên Thầy chút tâm thành tưởng niệm của chúng con; ngưỡng mong Thầy từ bi chứng giám, và gia hộ cho chúng con hoàn thành đạo nghiệp.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát.
Kính lạy Thầy,
Chúng con, Hạnh Cơ và Tịnh Kiên
Miền Tây Gia-nã-đại, cuối thu năm 2005 (PL 2549)
Thủ bút cua Cố Hòa Thượng Thích Đỗng Minh
liên quan đến công trình biên dịch bộ sách GKPH này:
….(ảnh thủ bút)…
QUÁ TRÌNH PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN ở TRUNG QUỐC
(phần 1)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời ở nước Ấn- độ. Khi quí vị đệ tử của Ngài kết tập Ba Tạng, đều là kinh bản Phạn văn1, cho nên về sau, khi Phật pháp truyền đến Trung-quốc, tất phải trải qua quá trình phiên dịch, mới thành ra kinh bản Hoa văn. Pháp bảo tuy phong phú, nhưng nếu không có người phiên dịch thì chắc chắn nhân dân Trung-hoa không thể nào được thấm nhuần ân trạch. Nhưng nếu dịch mà không khéo thì cũng làm mất đi cái ý nghĩa chân thật, không phù hợp với lời Phật dạy, lưu truyền cái sai lầm tệ hại cho người đời sau. Do đó, học thức uyên bác, tư tưởng cao siêu, hành văn lưu loát, tinh thông cả Phật học, Phạn văn và Trung văn, đều là những điều kiện tất yếu mà một pháp sư dịch kinh cần phải có; thiếu một trong các điều kiện ấy là không thể được. Nên biết rằng, tên tuổi của vị pháp sư dịch kinh sẽ gắn liền với thọ mạng của bộ kinh, luật, hay luận mà vị đó dịch -tức trở thành một nhân vật bất hủ đời đời.
Công tác dịch kinh ở Trung-quốc đã được bắt đầu với hai pháp sư Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Tương truyền, hai ngài đã dịch được 5 bộ kinh2, nhưng 4 bộ đã thất truyền, nay chỉ còn một bộ là kinh Tứ Thập Nhị Chương.
Từ thời Đông-Hán cho đến cuối thời Tây-Tấn,(1) trải 160 năm, là thời kì sơ khởi của công tác dịch kinh. Dưới ba triều vua Hoàn đế, Linh đế và Hiến đế(2) của thời Đông-Hán, vị dịch sư nổi danh nhất là ngài An Thế Cao5(3). Từ năm thứ 2 niên hiệu Kiến-hòa đời vua Hoàn đế, đến giữa niên hiệu Kiến-ninh đời vua Linh đế, trong hơn 20 năm(4), ngài dịch được hơn 30 bộ kinh, phần lớn thuộc kinh tiểu thừa. Lại có ngài Chi Lâu Ca Sấm,(5) gọi tắt là Chi Sấm4, dưới đời vua Linh đế, trước sau đã dịch được 23 bộ kinh, phần lớn là kinh đại thừa.
Trong thời Tam-quốc, các ngài Pháp Thời5(6), Tăng Khải6(7), Đàm Đế7(8), đều dịch luật bản. Lại có cư sĩ Chi Khiêm(9) ở nước Nhục-chi(10) đến Đông-Ngô, trong 30 năm đã dịch được 88 bộ kinh gồm cả đại thừa lẫn tiểu thừa, cả thảy là 118 quyển. Sa môn7 Tăng Hội(11) ở nước Khương-cư 8(12), đến Đông-Ngô lập chùa Kiến-sơ, dịch kinh luận đại thừa gồm 7 bộ, cả thảy 20 quyển. Lại có vị tăng Ân-độ là Khương Tăng Khải(13), đến Lạc-dương trong niên hiệu Gia-bình thời Tào-Ngụy, đã dịch kinh Vô Lượng Thọ.
Trong 52 năm thuộc thời Tây-Tấn, có 12 vị dịch sư, dịch được đến 600 quyển, trong đó, sa môn Trúc Pháp Hộ10(14) chiếm số lượng lớn nhất, gồm 175 bộ, cả thảy 354 quyển, bao gồm các loại kinh như Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn; lại còn có cả luật và luận. Ngài cũng được người đời xưng là Đôn-hoàng Bồ-tát(15).
Trong hơn 100 năm thuộc thời Đông-Tấn(16), các vị dịch sư cả tăng lẫn tục có 16 vị, trong đó, ngài Cù Đàm Tăng Già Đề Bà11(17) đã dịch bộ A Tì Đàm Tâm Luận12, cùng hai bộ kinh Trung A Hàm 60 quyển và Tăng Nhất A Hàm 51 quyển, kinh giáo tiểu thừa được dịch trên tầm mức qui mô lớn là kể từ lúc đó. Kế tiếp, tại Lô-sơn(18), ngài Phật Đà Bạt Đà La13(19) đã dịch vừa kinh, vừa luận, vừa thiền, vừa luật, cả thảy 13 bộ, gồm 125 quyển, trong đó, bộ Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh(20) và bộ Ma Ha Tăng Kì Luật 40 quyển, là trọng yếu nhất.
Đồng thời với thời đại Đông-Tấn, ở phương Bắc có Tam-Tần14(21), trải dài 80 năm, dịch sư cả thảy có 12 vị: Thời Tiền-Tần có 6 vị, nhưng chỉ có sa môn Pháp Hỉ15(22) dịch hai bộ kinh Trung A Hàm 59 quyển và Tăng Nhất A Hàm 50 quyển là so ra có giá trị -nhưng đều không lưu truyền ở đời; thời Tây-Tần chỉ có một vị, dịch phẩm không có gì quan trọng; thời Hậu-Tần có 5 vị, trong đó, ngài Cưu Ma La Thập16(23) được coi là người tài ba kiệt xuất. Từ năm thứ 4 cho đến năm thứ 14 niên hiệu Hoằng-thỉ, trước sau ngài đã dịch: về kinh có các bộ Đại và Tiểu Phẩm Bát Nhã17, cả thảy 74 bộ, gồm 384 quyển; về luận có bộ Đại Trí Độ Luận 100 quyển, Trung Luận 4 quyển, Bách Luận 2 quyển, Thập Nhị Môn Luận 1 quyển; – ba bộ luận sau đã được tông Tam Luận y cứ mà lập tông, về sau có người lại thêm vào bộ Đại Trí Độ Luận mà lập thành Tứ Luận tông15.
Ngoài ra còn có ngài Phật Đà Da Xá19(24), nguyên là thầy của ngài Cưu Ma La Thập, đến Trường-an năm thứ 10 niên hiệu Hoằng-thỉ, đã cùng với sa môn Trúc Phật Niệm20(25), dịch bộ luật Tứ Phần21 60 quyển và bộ kinh Trường A Hàm 22 quyển.
CHÚ THÍCH
- Ngôn ngữ Ấn-độ gần giống như ngôn ngữ trời Phạn-thiên ở cõi Sơ-thiền, cho nên kinh chưa dịch thì gọi là Phạn bản, tức là kinh điển bằng ngữ văn Ấn-độ.
- Đó là 5 bộ kinh: Thập Địa Đoạn Kết, Phật Bản Sinh, Pháp Hải Tạng, Phật Bản Hạnh, và Tứ Thập Nhị Chương.
- Ngài tên là An Thanh, hiệu Thế Cao, vốn là thái tử con vua nước An-tức. Khi vua cha băng thì ngài kế vị, nhưng vì nhàm chán cuộc đời, ngài đã nhường ngôi cho chú, xuất gia học đạo. Ngài thông suốt giáo lí cả ba thừa, bèn du hóa các nước để hoằng dương Phật pháp. Khi đến Lạc-dương, trước tiên ngài học Hán văn, rồi phiên dịch kinh điển. Các dịch phẩm của ngài gồm có: kinh Đại An Ban Thủ Ý, kinh Ẳm Trì Nhập, kinh Đạo Địa, v.v… cả thảy 39 bộ kinh luận.
- Ngài là vị sa môn của nước Nhục-chi, đến Lạc-dương vào đời vua Hoàn đế. Trong 40 năm, ngài đã dịch cả thảy 23 bộ kinh, gồm 67 quyển.
- Ngài tên là Đàm Kha Ca La, dịch ra Hán ngữ là Pháp Thời, người Trung Ẳn-độ, học suốt kinh điển đại tiểu thừa, tinh thông cả giới luật. Ngài đến Lạc-dương vào thời Tào-Ngụy, dịch bộ Tăng Kì Giới Tâm, tăng già Trung-quốc bắt đầu tuân thủ giới luật từ lúc đó.
- Ngài là vị sa môn của nước Khương-cư.
- Ngài là người nước An-tức.
- Khương-cư đồng tộc với Đại-nhục-chi. Lãnh thổ của họ trải dài từ biên cảnh phía Bắc tỉnh Tân- cương đến lãnh thổ của Nga trong vùng Trung-Á.
- “Sa môn”, dịch ra Hán ngữ là “cần tức”, nghĩa là siêng năng tu Phật đạo và dứt trừ mọi phiền não; đó là danh hiệu thường dùng để gọi những người xuất gia tu đạo.
- Ngài người quận Đôn-hoàng, 8 tuổi xuất gia, kinh sách chỉ cần đọc qua là thuộc lòng, từng đọc vạn lời, không có loại kinh giáo nào mà không đọc. Ngài vân du các nước, thông thạo 36 thứ ngôn ngữ của vùng Tây-vực, rồi mang về nước rất nhiều Phạn bản. Từ Đôn-hoàng ngài đi qua Trường-an, rồi Lạc- dương, đến Giang-tả, suốt đời đều dành cho công tác dịch kinh. Hai cha con Nhiếp Thừa Viễn và Nhiếp Đạo Chân từng là trợ thủ đắc lực của ngài; – về sau, cả hai cha con đều trở thành dịch sư.
- Dịch ra Hán ngữ là Chúng Thiên, là vị sa môn ở nước Kế-tân, bác thông Ba Tạng tiểu thừa. Vào niên hiệu Thái-nguyên đời vua Hiếu Vũ đế thời Đông-Tấn, đáp ứng lời mời của đại sư Tuệ Viễn, ngài đã đến Trung-quốc, trú tại Lô-sơn, cùng dịch bộ A Tì Đàm Tâm Luận. Sau đó ngài lại đáp lời mời của Vương Tuân, đến Kiến-khang dịch các bộ kinh Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm.
- Tôn giả Pháp Thắng thấy bộ luận Bà Sa quá sâu rộng, bèn trích ra các yếu nghĩa quan trọng, làm thành bộ A Tì Đàm Tâm Luận, gồm 4 quyển.
- Ngài là người nước Ca-duy-la-vệ ở miền Trung Ẳn, mồ côi từ thuở nhỏ, đi xuất gia, bác thông kinh giáo, tinh tường cả thiền và luật, sau hoằng hóa đến Trung-quốc, được ngài Tuệ Viễn mời lên ở Lô-sơn, chuyên việc dịch kinh.
- 1) Tiền-Tần: là một trong 16 nước vào thời nhà Tấn, thị tộc họ Phù, đóng đô tại Quan-trung, truyền nối được 7 đời vua, kéo dài 45 năm, bị nhà Hậu-Tần diệt. 2) Hậu-Tần: là một trong 16 nước vào thời nhà Tấn, thuộc tộc Khương. Diêu Trành giết Phù Kiên, tự xưng là Tần vương, đóng đô tại Trường-an, truyền nối được 3 đời vua, kéo dài 34 năm, bị nhà Đông-Tấn diệt. 3) Tây-Tần: là một trong 16 nước vào thời nhà Tấn, thuộc tộc Tiên-ti. Khất-phục Quốc Nhân thừa lúc Phù Kiên bị bại, bèn tự xưng là đại thiền vu; rồi con ông là Càn Qui lại xưng là Tần vương, đóng đô tại Kim-thành, tỉnh Cam-túc, truyền nối được 5 đời vua, kéo dài 47 năm, bị Hách Liên Định nhà Hạ diệt.
- Đàm Ma Nan Đề, dịch ra Hán ngữ là Pháp Hỉ. Thời gian ngài dịch kinh kéo dài cho tới năm thứ 6 niên hiệu Kiến-sơ thời Hậu-Tần mới hoàn tất, chứ không phải chỉ ở thời Tiền-Tần mà thôi.
- Ngài gốc người Ẳn-độ, nhưng sinh trưởng ở Qui-tư. Sau khi xuất gia thì học thông kinh luận đại thừa, thấu suốt yếu nghĩa huyền vi, được Diêu Hưng nghinh đón tới Trường-an, lấy lễ quốc sư mà đãi ngộ. Ngài xem khắp các kinh điển cựu dịch, ý nghĩa có nhiều sai trái, bèn căn cứ vào Phạn bản mà dịch mới trở lại. Năm thứ 11 niên hiệu Hoằng-thỉ đời Diêu-Tần, ngài thị tịch tại Trường-an, sau khi hỏa thiêu, cái lưỡi không bị tiêu hủy.
- Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật do ngài La Thập dịch có hai bản khác nhau: 1) Bản 27 quyển gọi là kinh Đại Phẩm Bát Nhã; 2) Bản 10 quyển gọi là kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã.
- Tông Tam Luận về sau phân làm hai phái Nam và Bắc. Phái Bắc, đại sư Minh Thắng đã thêm vào bộ luận Đại Trí Độ, gọi là tông Tứ Luận.
- Phật Đà Da Xá nghĩa là Giác Xứng, là vị sa môn nước Kế-tân, học vấn uyên bác, trí nhớ dồi dào, từng được ngài La Thập kính lễ là bậc thầy. Sau ngài được Diêu Hưng nghinh đón tới Trường-an để giúp vào công việc dịch kinh. Ngài La Thập có chỗ nào không hiểu rõ thì thỉnh ý ngài chỉ giáo.
- Ngài là vị sa môn ở Lương-châu, thông thạo cả Phạn và Hán văn. Trong các trường dịch kinh từ thời Tiền- Tần đến thời Hậu Tần, ngài đều giữ chức “truyền ngữ”. Sau ngài tự dịch các bộ kinh như Thập Trụ Đoạn Kết v.v… cả thảy 12 bộ, gồm 74 quyển.
- Ngài Đàm Vô Đức đã đem tạng Luật của Thượng Tọa bộ, phối hợp với kiến giải của chính ngài mà soạn thành văn, tuyên thuyết đến bốn lần mới hoàn tất; cứ mỗi lần tuyên thuyết là thành một phần, nhân đó mà có tên là luật Tứ Phần.
PHỤ CHÚ
(01) Tây-Tấn (265-316): Tây-Tấn là thời đại kế tiếp thời đại Tam-quốc trong lịch sử nước Trung-hoa. Vào cuối thời Đông-Hán (25-220), những người trong dòng họ Tư-mã đã giúp cho Tào Phi (178-226) soán ngôi vua Hán Hiến đế (189-220), diệt nhà Hán, tự xưng đế (tức Ngụy Văn đế), lập nên nhà Ngụy. Văn đế chết, Minh đế (227-239) nối ngôi, một người trong họ Tư-mã là Tư-mã Ý (178-251) liền nắm hết quyền hành, tự phong mình làm thừa tướng nước Ngụy. Năm 265, cháu của Tư-mã Ý là Tư-mã Viêm (236-290) đã phế bỏ vua cuối của nhà Ngụy là Nguyên đế (260-265), tự xưng đế, sáng lập vương triều Tấn, đóng đô ở thành Lạc-dương (là kinh đô cũ của nhà Ngụy). 15 năm sau (năm 280), Tư-mã Viêm lại diệt luôn nhà Đông-Ngô, thống nhất Trung-quốc. Sử gọi đây là nhà Tây-Tấn (vì kinh đô Lạc-dương của nhà Tây-Tấn nằm về phía Tây Bắc của kinh đô Kiến-khang của nhà Đông-Tấn sau này). Vương triều Tây- Tấn truyền nối được 4 đời vua, kéo dài 52 năm.
(02) Hoàn đế (147-167), Linh đế (168-189) và Hiến đế (189- 220): là ba ông vua cuối cùng của vương triều Đông-Hán (25-220). Thật ra, trong khoảng thời gian này (147-220) có đến bốn ông vua, chứ không phải chỉ có ba. Giữa hai vua Linh đế và Hiến đế còn có vua Thiếu đế. Vua Linh đế băng vào tháng 4 năm Kỉ Tị (189) thì vua Thiếu đế lên nối ngôi, nhưng chỉ đến tháng 9 năm đó (189) thì lại băng, và vua Hiến đế lên nối ngôi (189); tức Thiếu đế làm vua chỉ được 5 tháng, cho nên trong bài học tác giả đã lược bỏ ông vua này.
(03) An Thế Cao (Arsakes, ?-?): là vị cao tăng người nước An-tức (Parthia, tức nước Iran ngày nay). Ngài tên là Thanh, tự là Thế Cao, nguyên là thái tử con vua nước An-tức, cho nên đã lấy chữ “An ” làm họ, và tên thông thường của ngài được gọi là An Thế Cao. Thuở nhỏ ngài từng được khen ngợi là người con chí hiếu, bản chất thông minh, tâm tính hiền lành, học rộng biết nhiều. Sau khi phụ vương chết, ngài lên ngôi kế vị làm vua An-tức, nhưng đã từ bỏ vương vị, nhường ngôi lại cho chú, rồi xuất gia tu học Phật. Ngài học thông kinh luận, lại giỏi về thiền học. Sau đó ngài vân du xuyên qua các nước vùng Tây- vức; và năm 148 (năm thứ nhì đời vua Hán Hoàn đế – cũng có thuyết nói là năm 146 đời vua Chất đế) ngài đến kinh đô Lạc-dương. Ngài ở tại đây trong hơn 20 năm, chuyên việc phiên dịch kinh điển Phạn văn ra Hán văn. Các dịch phẩm của ngài gồm có: Tứ Đế Kinh, Thập Nhị Nhân Duyên Kinh, Bát Chánh Đạo Kinh, Chuyển Pháp Luân Kinh, Tu Hành Đạo Địa Kinh, A Tì Đàm Vuơng Pháp v.v…, và cũng có các kinh về thiền học như An Ban Thủ Ý Kinh, Àm Trì Nhập Kinh, Thiền Hành Pháp Tuởng v.v…, tất cả khoảng 34 bộ (tác giả nói có 39 bộ), gồm 40 quyển, tất cả là kinh luận tiểu thừa, chủ yếu là để truyền bá tư tưởng của Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ. Hơn nữa, với các dịch phẩm về thiền học như vừa nêu trên, ngài được coi là người đầu tiên đem pháp môn thiền quán (dù là thiền của tiểu thừa) vào Trung-quốc. Sau thời gian dịch kinh tại Lạc-dương hơn 20 năm, người ta không biết gì thêm về hành trạng của ngài. Có thuyết nói, vào cuối thời Đông-Hán, gặp lúc loạn lạc, ngài đã rời Lạc-dương, xuống phương Nam lánh nạn, và đã viên tịch tại Cối-kê (huyện Thiệu-hưng, tỉnh Triết-giang). Theo sử Trung-quốc, cuối thời Đông-Hán là thời kì vô cùng nhiễu nhương, giặc giã khắp nơi trên đất Hán, chỉ có vùng đất phía Nam là yên ổn. Vì vậy, rất đông các nhà trí thức của cả Nho, Phật, Lão đã rời Lạc-dương, di cư xuống miền Nam để lánh nạn.
(04) Kiến-hòa là niên hiệu đầu tiên của vua Hán Hoàn đế, kéo dài 3 năm (147-149); năm thứ 2 niên hiệu Kiến-hòa tức là năm 148 TL. Kiến-ninh là niên hiệu đầu tiên của vua Hán Linh đế, kéo dài 4 năm (168- 171). Thời gian dịch kinh của ngài An Thế Cao, theo Phật Quang Đại Từ Điển ghi rõ, là từ năm thứ 2 niên hiệu Kiến-hòa đến năm thứ 3 niên hiệu Kiến-ninh, tức là từ năm 148 đến năm 170, cả thảy là 22 năm.
(05) Chi Lâu Ca Sấm (Lokasema, 147-?): cũng gọi là Chi Sấm, là vị cao tăng nước Đại Nhục-chi, đến Trung-quốc sau ngài An Thế Cao, vào khoảng cuối đời vua Hán Hoàn đế (có thuyết nói là vào đời vua Linh đế). Trong 12 năm cuối đời vua Linh đế (từ măm 178 đến năm 189), ngài đã dịch những bộ kinh đại thừa như: Đạo Hạnh Bát Nhã, Bát Chu Tam Muội, A Xà Thế Vuơng, Tạp Thí Dụ, Thủ Lăng Nghiêm, Vô Luợng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, Bảo Tích v.v… Trong các bộ kinh trên, bộ Đạo Hạnh Bát Nhã được coi là quan trọng nhất, vì đó là bộ kinh thuộc hệ Bát Nhã được dịch sớm nhất, và do đó, ngài Chi Lâu Ca Sấm cũng được công nhận là người đầu tiên phiên dịch và truyền bá nền văn học Bát Nhã của Phật giáo đại thừa tại Trung-quốc. Chính nền văn học Bát Nhã này đã thúc đẩy làm nẩy sinh phong trào tìm hiểu, nghiên cứu, đàm luận trong giới trí thức học Phật trong các thời Ngụy, Tấn sau này. Thứ nữa, kinh Bát Chu Tam Muội là loại kinh hệ lấy cảnh giới Tây-phương và đức Phật A Di Đà làm đối tượng, cho nên đây cũng là thời kì khởi đầu cho nền tín ngưỡng “Tịnh Độ Di Đà” ở Trung-quốc. Ngoài ra, việc dịch kinh Thủ Lăng Nghiêm của ngài Chi Lâu Ca Sấm cũng đã tác động mạnh mẽ cho công cuộc “đại thừa hóa” Phật giáo Trung-quốc trong hai thế kỉ 4 và 5. Rất tiếc, đã không có ai biết gì về hành trạng của ngài sau thời gian dịch kinh nói trên. Công trình dịch kinh của hai ngài An Thế Cao và Chi Lâu Ca Sấm trong thời kì này, đã khai nền đắp móng vững vàng cho Phật giáo Trung-quốc.
Ngoài hai ngài An Thế Cao và Chi Lâu Ca Sấm ra, trong thời Đông-Hán còn có các vị cao tăng ngoại quốc khác đã đến Trung-quốc chuyên việc dịch kinh, như: Trúc Phật Sóc (Sanghabuddha, ?-?, người Thiên-trúc, đến Lạc-dương vào đời vua Hoàn đế), Chi Diệu (?-?, người nước Nhục-chi, đến Lạc- dương năm 185), Khương Cự (?-?, người nước Khương-cư), Khương Mạnh Tường (?-?. người nước Khương-cư, đến Lạc-dương vào đời vua Hiến đế), Trúc Đại Lực (?-?, người Tây-vức, đến Lạc-dương vào đời vua Hiến đế), Đàm Quả (?-?, người Tây-vức, đến Lạc-dương vào đời vua Hiến đế), cư sĩ An Huyền (?-?, người nước An-tức, đến Lạc-dương vào đời vua Linh đế, học trò của ngài An Thế Cao), v.v…; đặc biệt, một người Hán là cư sĩ Nghiêm Phật Điều (cũng gọi Nghiêm Phù Điều, ?-?, người tỉnh An-huy), cũng tham gia công tác dịch kinh trong thời kì này; và ông đã là người Phật tử bản xứ đầu tiên tùng sự dịch kinh. Từ tuổi trẻ ông đã là người thông minh dĩnh ngộ, bác học đa văn. Gặp lúc ngài An Thế Cao sang Trung-quốc dịch kinh và truyền bá Phật pháp, ông đã cùng An Huyền xin nhập môn làm đồ đệ, và cùng tham gia công tác dịch kinh. Tương truyền, về sau ông được xuất gia làm tăng, nhưng không có tài liệu nào nói rõ ông đã xuất gia vào thời gian nào.
(06) Pháp Thời (tức Đàm Ma Ca La, Dharmakala, ?-?): Ngài là người Trung Ẳn-độ, thiên tư mẫn tuệ từ thuở nhỏ, thông hiểu Tứ Phệ Đà, tự cho văn lí trong thiên hạ đều chứa hết trong bụng mình. Về sau, một hôm đọc được bộ A Tì Đàm Tâm Luận, thì lòng dạ ngơ ngác, chẳng hiểu gì cả, bèn thỉnh một vị tì kheo nhờ giảng giải cho. Nghe xong bỗng nhiên tỏ ngộ, thấy rõ diệu lí nhân quả suốt cả ba đời. Từ đó ngài bỏ hết lạc thú thế tục, xuất gia theo Phật giáo, tinh tấn tu học, chẳng bao lâu thông suốt kinh điển đại tiểu thừa, lại vững vàng cả giới luật. Năm 222 đời vua Ngụy Văn đế (220-226), ngài đến Trung-quốc, ở tại kinh đô Lạc-dương của nước Ngụy. Ngài quan sát, thấy tăng chúng Trung-quốc chỉ cạo đầu và đắp y trơn (y của sa di), chứ không có luật pháp gì để hành trì, bèn phát nguyện hoằng truyền giới luật. Năm 250 (đời vua Ngụy Tề vương, tức Tào Phi) ngài dịch xong bộ Tăng Kì Luật Giới Bản, bèn thỉnh 10 vị Phạn tăng tác pháp yết ma, truyền trao giới luật. Tương truyền, vị tăng Trung-quốc đầu tiên được thọ giới là Chu Sĩ Hành (204-282 – Xin xem lại phụ chú số 4, bài 21, sách GKPHII, q. thượng). Pháp chế truyền giới ở Trung-quốc bắt đầu từ lúc đó. Hành trạng của ngài từ sau đó, không thấy tài liệu nào ghi chép. Luật tông ở Trung-quốc đã tôn xưng ngài là vị sơ tổ của tông Tứ Phần Luật.
(07) Tăng Khải (Samghavarman, âm dịch là Tăng Già Bạt Ma, ?-?): là vị cao tăng dịch kinh ở Trung- quốc vào thời Tam-quốc. Tương truyền ngài là người Ẳn-độ, nhưng cứ theo chữ “KHƯƠNG” ở đầu tên ngài, thì nhiều học giả tin rằng ngài là người nước Khương-cư, hay ít ra, nguồn gốc của ngài cũng có quan hệ khắng khít với nước ấy. Năm 252 ngài đến Lạc-dương (kinh đô nước Tào-Ngụy), ở chùa Bạch- mã, dịch ra Hán văn các kinh Úc Già Trưởng Giả và Vô Lượng Thọ. Riêng về bộ kinh Vô Lượng Thọ (gồm 2 quyển), vì ngữ văn không đồng nhất với kinh Úc Già Trưởng Giả, cho nên có nhiều học giả ngờ rằng, đó không phải là dịch phẩm của ngài.
(08) Đàm Đế (Dharmatrata): Ngài là người nước An-tức, sử liệu không nói rõ về ngài, chỉ biết ngài đã dịch hai bộ luật quan trọng: Đàm Vô Đức Yết Ma (tức Tứ Phần Luật) và giới bản của Ma Ha Tăng Kì Luật. Còn một ngài nữa cũng tên Đàm Đế (347-411), sống vào thời Đông-Tấn (cách sau hai thời đại Tam-quốc và Tây-Tấn), có tiểu sử rõ ràng hơn, nhưng không phải là nhân vật tác giả muốn nói tới ở đây (thời Tam-quốc).
(09) Chi Khiêm (?-?): là vị cư sĩ người nước Đại Nhục-chi, theo gia tộc đến trung-quốc vào thời Đông- Hán (sau ngài Chi Lâu Ca Sấm), ở tại tỉnh Hà-nam. Ông thông hiểu rất nhiều ngôn ngữ, theo học Phật với ngài Chi Lượng (đệ tử của ngài Chi Lâu Ca Sấm), tham bác đủ loại kinh sách, được người đời gọi là “trí nang” (cái túi trí tuệ). Lại nữa, lúc đó cả ba vị Chi Lâu Ca Sấm, Chi Lượng và Chi Khiêm, đều là những bậc bác học đa văn, tài cao đức trọng, cho nên đã được người đương thời ca tụng: “Thiên hạ bác tri, bất xuất tam Chi” (những kẻ học rộng trong thiên hạ, không ngoài 3 người họ Chi). Cuối đời Đông- Hán thiên hạ loạn lạc, ông đi về phương Nam lánh nạn, và cư ngụ tại thành Kiến-nghiệp (Nam-kinh). Khi vua Tôn Quyền (222-252) xưng đế và lập nên nước Ngô (năm 222), cũng đóng đô tại Kiến-nghiệp. Nghe tiếng ông, nhà vua rất kính trọng, ban tặng danh hiệu bác sĩ, mời làm phụ đạo để dạy dỗ cho thái tử Tôn Lượng. Trong khoảng 30 năm ở tại đây, ông đã dốc lực phiên dịch và chú thích kinh điển. Các dịch phẩm của ông gồm có: Duy Ma Cật Kinh, Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh, Đại Minh Độ Kinh, Đại A Di Đà Kinh, Đại Bát Nê Hằng Kinh v.v… Ông đã chú giải bộ Liễu Bản Sinh Tử Kinh. Ông cũng đã lấy hứng khởi từ hai bộ kinh Vô Lượng Thọ và Trung Bản Khởi mà trước tác sách Tán Bồ Tát Liên Cú. Sau khi thái tử Tôn Lượng (252-258) tức vị nối ngôi làm vua nước Ngô (năm 252), ông đã vào núi ẩn cư, đến năm 60 tuôi viên tịch.
(10) Nhục-chi (Kusana): là tên một chủng tộc sống rải rác ở các vùng Tây Bắc Trung-quốc, Tây-vức, Trung và Tây Bắc Ẳn-độ, các vùng lưu vực sông Hằng và Ngũ-hà, trong khoảng thời gian từ thế kỉ thứ 3 tr. TL đến thế kỉ thứ 5 s. TL. Theo các nhà học giả hiện đại, chủng tộc này bao gồm các tộc Tạng, Mông- cô, Đột-quyết, Khương, Indo-Scythians v.v… Văn hóa của họ tương đồng với chủng tộc Hung-nô. Theo các sách sử Trung-quốc, chủng tộc Nhục-chi nguyên sống trong vùng Đôn-hoàng và Kì-liên sơn, phía Tây Bắc Trung-quốc. Vào đầu nhà Hán, vì tránh tộc Hung-nô ở phía Bắc, họ đã di cư về hướng Tây, chiếm đất của tộc Tắc (Saka) và Ô-tôn, đánh bại Đại-Hạ (Bactria, một cô quốc ở lưu vực sông Amu, vùng Trung-Á, nằm phía Tây Nam cao nguyên Pamir, bao trùm nước A-phú-hãn ngày nay), chiếm cả vùng đất phía Bắc sông Qui (tức sông Amu, ở biên thùy phía Bắc nước A-phú-hãn ngày nay), lập thành nước Đại Nhục-chi. Số còn lại vẫn giữ vùng đất Kì-liên sơn, gọi là Tiểu Nhục-chi.
Sau khi đã ôn định tình thế, nước Đại Nhục-chi đóng đô tại thành Lam-tử ở phía Nam sông Qui (nay là Bắc bộ nước A-phú-hãn), cho năm “hấp hầu” (tức là chư hầu) của dân bản xứĐại-Hạ được trấn giữ đất cũ; và cả năm hấp hầu này đều lệ thuộc Đại Nhục-chi. Hơn 100 năm sau, Quí-sương hấp hầu trở nên hùng mạnh hơn bốn hấp hầu kia. Thủ lãnh của Quí-sương hấp hầu lúc đó là Khâu Tựu Khước (Kujura Kadphises I) nôi lên tiêu diệt cả bốn hấp hầu kia, chiếm lấy địa vị của Đại Nhục-chi, tự lập làm vua, đôi tên nước thành Quí-sương (Kushan); rồi chinh phục nước An-tức, thôn tính đất Cao-phụ (Kabul), diệt Bộc-đạt (Baghdad), Kế-tân (Dardisthan), chiếm luôn vùng đất Bàng-già-phô (Panjab) của nước Thiên- trúc, lập thành đế quốc Quí-sương rộng lớn. – Từ đó, lẽ ra vương triều này phải được gọi là Quí-sương vương triều, nhưng người Trung-quốc vẫn quen gọi là Đại Nhục-chi.
Sau khi Khâu Tựu Khước chết, người con là Diêm Cao Trân (Wema Kadphises II) nối ngôi, lại tiếp tục chiếm miền Bắc nước Thiên-trúc, cho tướng trấn giữ nước Kiền-đà-la (Gandhara); đó là thời kì toàn thịnh của đế quốc Đại Nhục-chi (tức Quí-sương). Trong thời gian tại vị, vua Diêm Cao Trân đã giao thiệp rộng rãi với các nước lân bang, nhất là La-mã, gây nên sự dung hợp giữa hai nền văn hóa Đông và Tây; từ đó mà hình thành nền mĩ thuật Kiền-đà-la, tức là nền mĩ thuật Phật giáo mang hình thức Hi-lạp, đã ảnh hưởng sâu xa đến nền mĩ thuật Phật giáo ở các nước Á-châu về sau này. Ông cũng đã cho lấy vàng trong nước để đúc tiền, làm cho kinh tế phát triển, các thành phố và nền thương nghiệp rất phồn thịnh, đặc biệt là “con đường tơ lụa” đi ngang qua địa vức của đế quốc, đã trở thành yếu lộ giao thông kinh tế giữa Âu-châu và Á-châu.
Đến đời vua thứ ba của vương triều là Ca Nị Sắc Ca, thì thế lực của đế quốc Quí-sương lại càng rộng lớn hơn nữa. Ông dời kinh đô của đế quốc đến thành Bố-lộ-sa-bố-la (Purusapura) của nước Kiền- đà-la. Ông tín ngưỡng Phật pháp rất kiền thành, nên đã hết lòng bảo hộ Phật giáo, xây cất rất nhiều chùa tháp, quan trọng nhất là ông đã phát tâm bảo trợ cho đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư của 500 vị A- la-hán tại nước Ca-thấp-di-la (Kasmira). Trong lịch sử Phật giáo Ẳn-độ, công nghiệp ủng hộ Phật giáo của ông được sánh ngang bằng với vua A Dục (thế kỉ thứ 3 tr. TL). Các vị đại luận sư của Phật giáo như Mã Minh, Long Thọ, v.v… đều ra đời trong triều đại của ông.
Lại nữa, với địa thế bao trùm từ Tây sang Đông ấy, nước Đại Nhục-chi đã trở thành môi giới quan trọng cho sự giao lưu văn hóa giữa Ẳn-độ và Trung-quốc; cố nhiên, sự giao lưu văn hóa đó đã có tầm ảnh hưởng lớn lao đến việc truyền bá Phật pháp từ Ẳn-độ và Tây-vực đến các nước ở Đông-độ như Trung-quốc, Việt-nam, v.v…
Sau triều đại của vua Ca Nị Sắc Ca là các vua Ngõa Tây Sắc Ca (Vasisca), Phất Duy Sắc Ca (Huvisca), Ngõa Tô Đề Bà (Vasudeva), kế tiếp nhau nối nghiệp. Dưới triều đại vua Ngõa Tô Đề Bà, vương triều Tát-san (Sasan) của Ba-tư và vương triều Cấp-đa (Gupta) ở Trung Ẳn-độ đều quật khởi, phía Bắc lại bị áp lực mạnh mẽ của Hung-nô, cho nên quốc thế trở nên suy sụp. Đến hậu bán thế kỉ thứ 5 TL thì Đại Nhục-chi bị tộc Áp-đạt tiêu diệt.
(11) Tăng Hội (?-280): tức Khương Tăng Hội, vị cao tăng Việt-nam ở thế kỉ thứ 3 TL. Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc, thân phụ ngài vì theo nghề buôn bán mà dời sang Giao-chỉ (tên cũ của nước Việt-nam vào thời lệ thuộc nhà Hán) sinh sống. Tại đây ông đã cưới vợ Việt-nam và sinh ra Tăng Hội. Khi Tăng Hội lên 10 tuổi thì song thân đều lần lượt qua đời. Khi chịu tang cha mẹ xong, Tăng Hội xuất gia, tu học tinh cần. Đến tuổi trưởng thành thì thọ giới cụ túc. Ngài là người có trí tuệ vượt chúng, giỏi cả Phạn văn lẫn Hán văn, không những tinh thông Phật học, mà còn uyên bác cả Nho học và Lão học, lại giỏi cả thiên văn, đồ vĩ, kiêm tài ăn nói, viết văn. Lúc bấy giờ nước ta đang bị nhà Hán đô hộ, gọi là quận Giao-chỉ, thủ phủ là thành Luy-lâu (trong địa phận tỉnh Bắc-ninh ngày nay). Hồi đó bên Trung-quốc chưa có tăng sĩ bản xứ, nhưng ở Luy-lâu thì đã có tăng đoàn đông đảo người bản xứ. Ngài Tăng Hội đã là một trong những vị lãnh đạo và hướng dẫn của tăng đoàn ấy.
Tại đạo tràng ở trung tâm Phật giáo Luy-lâu, lúc đó có ba vị cư sĩ đồ đệ của ngài An Thế Cao là Trần Tuệ, Hàn Lâm và Bì Nghiệp, từ kinh đô Lạc-dương chạy xuống lánh nạn, ngài đã mời các vị này tham gia vào công việc phiên dịch, nghiên cứu và chú giải kinh điển. Tại đây, ngài đã biên tập kinh Lục Độ Tập, Lục Độ Yếu Mục, kinh Tạp Thí Dụ, viết bài tựa cho kinh An Ban Thủ Ý và kinh Pháp Cảnh (do ngài An Thế Cao dịch ở Lạc-dương, được Trần Tuệ mang theo). Ngài cũng đã chú thích cho ba kinh An Ban Thủ Ý, Pháp Cảnh và Đạo Thọ (do ngài An Thế Cao dịch), nhưng ba tác phẩm này ngày nay không còn. Nói chung, các tác phẩm của ngài đều nhằm xiển dương thiền học trong tinh thần đại thừa. Những dịch phẩm hay biên soạn của ngài sau này ở đất Ngô cũng gồm toàn những giáo điển đại thừa. Bởi vậy, giới học giả Phật học Việt-nam ngày nay đã có khuynh hướng tôn xưng ngài là vị Tổ sư Thiền học Việt- nam.
Năm 222, Tôn Quyền chiếm cứ miền Giang-tả (tức Giang-nam), tự xưng đế và thành lập nước Đông- Ngô (thời Tam-quốc), thì nước ta lại bị lệ thuộc vào nước Ngô, vì lúc này nhà Hậu-Hán đã mất (năm 220). Với sự có mặt của cư sĩ Chi Khiêm, lúc đó ở Kiến-nghiệp đã có sinh hoạt của Phật giáo, nhưng chưa có tự viện, mà tăng sĩ cũng chưa có ai. Năm 247 (Tôn Quyền làm vua được 25 năm), ngài Tăng Hội đã từ Luy-lâu sang Kiến-nghiệp hoằng hóa. Sau khi diện kiến đàm đạo, được cảm hóa bởi tài cao đức trọng, vua Tôn Quyền đã xin qui y và thọ giới ưu-bà-tắc với ngài. Nhà vua đã xây cất chùa Kiến-sơ để ngài làm đạo tràng hoằng hóa. Cho tới lúc đó, miền Giang-nam mới có hình bóng vị tăng sĩ Phật giáo đầu tiên là ngài Tăng Hội (tới từ Việt-nam), và ngôi chùa Phật giáo đầu tiên là chùa Kiến-sơ (do triều đình Đông-Ngô xây cất). Từ đó trở đi, nhờ sự nhiệt tâm hoằng pháp của ngài, đạo Phật được truyền bá rộng rãi tại Đông-Ngô, người bản xứ được phép xuất gia làm tăng sĩ, tự viện được xây cất rải rác nhiều nơi. Nhưng đến đời vua Tôn Hạo (264-280) thì Phật giáo bị đàn áp. Do sự gièm siểm của các cố vấn Nho, Lão, Tôn Hạo đã ban lệnh phá hủy chùa chiền, tuy vậy, chùa Kiến-sơ của ngài Tăng Hội vẫn không bị ai đụng tới, vì ảnh hưởng của nó quá lớn. Nhưng không phải vì vậy mà ngài được yên thân. Nhà vua đã sai Trương Dực, một trí thức thông hiểu cả Nho và Lão, đến chùa để cật vấn ngài, cố dồn ngài vào thế bí. Nhưng vì đã nắm vững tư tưởng Nho, Lão, ngài đã hoàn toàn không nao núng; sau một ngày dài đối luận, Trương Dực không bẻ gẫy ngài được bất cứ một lời nào. Cuối cùng, do sự trình tâu chân thật của Trương Dực về ngài, vua Tôn Hạo phải cho sứ giả đến chùa thỉnh ngài vào cung. Sau một buổi thuyết pháp, nhà vua đã cảm phục, xin qui y và thọ năm giới với ngài. Nhà vua lại ban lệnh tu sửa lại các chùa đã bị phá, và trùng tu mở rộng chùa Kiến-sơ. Trong thời gian ở chùa Kiến-sơ, ngài đã dịch Ngô Phẩm (tức kinh Đạo Hạnh Bát Nhã) và biên tập Nê Hoàn Phạm Bối; nhưng cả hai tác phẩm này đều thất truyền. Đầu năm 280, vua Tôn Hạo đầu hàng nhà Tấn, chấm dứt nhà Đông-Ngô; cuối năm ấy thì ngài viên tịch. – Sự tích ngài Khương Tăng Hội đã được sử sách ghi chép rõ ràng, nhưng ở đây tác giả vẫn không muốn thừa nhận như thế, đã nói khác đi (trong bài học ở trên): “Sa môn Tăng Hội ở nước Khương- cư, đến Đông-Ngô lập chùa Kiến-sơ. ”
(12) Khương-cư (Sogdiana): tên một vương quốc nằm trong vùng Tây-vức ngày xưa, do giống dân du mục thuộc tộc Thổ-nhĩ-kì kiến lập; tức nay là vùng bình nguyên các xứ Kirgiz, Tashkent v.v… nằm giữa các xứ: phía Bắc là Kazakh, phía Tây là Uzbek, phía Nam là A-phú-hãn và Pakistan, và phía Đông là Tân-cương (Trung-quốc). Nước này đã thấm nhuần Phật pháp từ mấy thế kỉ cuối trước Tây lịch, và nhiều vị danh tăng ở đây (như Khương Cự, Khương Mạnh Tường, Khương Tăng Khải v.v…) đã đến Trung-quốc truyền bá Phật giáo từ những kỉ nguyên đầu TL. Tổ tiên của ngài Khương Tăng Hội ở Việt-nam cũng là người thuộc vương quốc này.
(13) Khương Tăng Khải (Samghavarman): tức là ngài Tăng Khải đã được đề cập tới trong phụ chú số 7 ở trước.
(14) Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa): Tổ tiên của ngài vốn người nước Nhục-chi, đã mấy đời sống ở Đôn- hoàng (vùng cực Tây của tỉnh Cam-túc, Trung-quốc), cho nên ngài được gọi là Chi Pháp Hộ. Ngài 8 tuổi xuất gia, hầu cận một vị sa môn ngoại quốc là Trúc Cao Tòa, nên đổi họ Chi thành họ Trúc; người đời xưng là Trúc Pháp Hộ. Ngài bản tính thuần lương, hiếu học, mỗi ngày tụng kinh đến vài vạn câu; lại xem khắp sáu kinh, thông suốt tư tưởng bách gia. Lúc bấy giờ (thời Tây-Tấn) kinh điển đại thừa truyền nhập Trung-quốc chưa đầy đủ, ngài bèn lập chí Tây du, học thông cả ngôn ngữ của 36 nước trong vùng Tây- vức. Năm 265 (đời vua Tấn Vũ đế, 265-291) ngài mang về Trung-quốc rất nhiều kinh điển Phạn văn, trú tại Trường-an và Lạc-dương, chuyên việc dịch kinh. Ngài viên tịch trong khoảng vua Tấn Mẫn đế trị vì (313-316), thế thọ 78 tuổi. Người đương thời xưng ngài là Nhục-chi Bồ-tát, hay Đôn-hoàng Bồ-tát. Dịch phẩm của ngài gồm nhiều kinh điển đại thừa, như Quang Tán Bát Nhã, Phổ Diệu, Đại Ai, Độ Thế Phẩm, Trì Tâm, Thủ Lăng Nghiêm, Hiền Kiếp, Duy Ma, Vô Lượng Thọ, Chánh Pháp Hoa, v.v… Đặc biệt, sau khi bản dịch kinh Chánh Pháp Hoa của ngài ra đời (năm 286), người Trung-quốc bắt đầu biết đến danh hiệu của đức Bồ-tát Quán Thế Âm; và từ đó, tín ngưỡng về Quán Thế Âm Bồ-tát cũng bắt đầu được phổ biến.
(15) Đôn-hoàng Bồ-tát: là tôn hiệu của ngài Trúc Pháp Hộ. Vì ngài là một vị cao tăng kì vĩ, lại quê ở quận Đôn-hoàng, nên người đương thời đã xưng hiệu ngài như vậy.
Đôn-hoàng là tên vùng đất ở cực Tây tỉnh Cam-túc, Trung-quốc. Từ thời thượng cổ, vùng đất này là lãnh thổ của tộc Tây-nhung. Vào thời Xuân-thu nó được gọi là Qua-châu. Dưới thời đại nhà Tần, nó là đất của tộc Đại Nhục-chi; đầu nhà Hán, nó là lãnh thổ của người Hồn-da (thuộc tộc Hung-nô). Năm 111 tr. TL, dưới triều vua An đế (107-125) thời Đông-Hán, nó được đặt thành huyện Đôn-hoàng; năm 335, dưới triều vua Thành đế (326-342) thời Đông-Tấn, nó được đổi thành Sa-châu; về sau, nhà Tây-Lương (420-421, một trong 16 nước thời Đông-Tấn) đã lập kinh đô tại đây; dưới triều vua Thái-vũ đế (424-452) nhà Bắc-Ngụy (386-534) ở thời đại Nam-Bắc-triều (386-589), nó được đổi thành Đôn-hoàng trấn; dưới triều vua Tùy Dạng đế (605-616), nó lại được đổi thành Đôn-hoàng quận. Trải qua các thời đại Đường, Tống, Nguyên, Minh (618-1661), nó nhiều lần được đổi thành các tên: Qua-châu, Tây-sa-châu, Đôn- hoàng, Sa-châu. Từ đời vua Càn Long (1736-1795) nhà Thanh trở đi, nó được gọi là Đôn-hoàng huyện.
Từ cổ đại, vùng đất Đôn-hoàng đã có nhiều giống dân sinh sống, văn hóa phong tục phức tạp. Từ thời đại Hán triều, nó đã trở thành nơi giao lộ quan trọng giữa Trung-quốc và các nước vùng Tây-vực; vì vậy mà nó đã tiếp nhận được Phật giáo và phát triển rất sớm. Các vị cao tăng uất thân từ vùng đất này rất nhiều, mà ngài Trúc Pháp Hộ là một (từng được người đương thời xưng hiệu là Đôn-hoàng Bồ-tát). Đại sư Trúc Pháp Thừa là người đã xây ngôi chùa đầu tiên tại Đôn-hoàng, cũng là người phụ tá đắc lực của ngài Trúc Pháp Hộ trong công tác phiên dịch kinh điển. Các bậc cao tăng như Vu Đạo Thúy (đời Tây-Tấn), Thiền Đạo Khai (thời Đông-Tấn), Pháp Hiển (thời Tiêu-Tề), Đạo Chiêu (thời Bắc-Ngụy), Tuệ Viễn (tức Đôn-hoàng Tuệ Viễn ở thời đại nhà Tùy), v.v… đều xuất thân từ vùng đất này.
Ra khỏi Đôn-hoàng là vùng sa mạc mênh mông, sống chết khó lường, rất nguy hiểm cho các thương nhân, cho nên họ luôn luôn cầu nguyện chư Phật gia hộ; đó là nguyên nhân làm hình thành nền nghệ thuật Đôn-hoàng rất phát đạt về sau này. Đó là một di tích vô cùng quan trọng của Phật giáo Trung- quốc, gọi là “Đôn-hoàng thiên Phật động” (cũng gọi là hang Mạc-cao). Khu động đá này nằm ở triền phía Đông núi Minh-sa, cách huyện lị Đôn-hoàng 20 cây số về hướng Đông Nam. Tương truyền, thạch động đã được sa môn Lạc Tổn khởi công khai phá vào năm 366 đời Tiền-Tần; sau đó, các vị như sa môn Pháp Lương, quan thứ sử Kiến Bình công, Đông-dương vương, tướng Lí Quảng, v.v… nối tiếp, hoặc đào hang xây nhà đá, hoặc đục đá làm khám thờ Phật, hoặc tạc tượng trên vách đá, v.v… để hoàn thành công trình vĩ đại đó. Trải qua thời gian, số thạch động mỗi ngày được kiến tạo thêm nhiều, đến hơn ngàn hang. Nhưng rồi gió cát vùi lấp, lại trải qua bao cuộc binh lửa từ thời nhà Tống, rồi quân Hồi giáo dày xéo dưới thời nhà Minh, khiến cho khu thạch động này bị tàn phá rất nhiều; vả lại, từ thời nhà Minh trở đi, đường hàng hải phát triển mạnh, làm cho “con đường tơ lụa” bị phế bỏ, vùng thạch động Đôn-hoàng nhân đó cũng bị bỏ quên, ít ai biết đến. Mãi đến năm 1879, dưới triều vua Quang Tự (1875-1908) nhà Thanh, nhà địa chất học người Hung-gia-lợi, ông L. de Lóczy, thám du đến nơi đây, đã phát hiện khoảng hơn 400 thạch động, bèn công bố cho thế giới biết. Từ đó, Đôn-hoàng thiên Phật động mới được các nhà khảo cổ, quí vị học giả chú ý, tìm đến khai quật, nghiên cứu, làm cho nó trở thành một trong các hang động nổi tiếng hiện nay trên thế giới. Người ta tìm thấy trong các thạch động này rất nhiều sách vở, tài liệu quí giá, bao quát cả các ngành học thuật như tự nhiên, địa lí, lịch sử, xã hội, kinh tế, văn học, mĩ thuật, tôn giáo; nhất là kho kinh sách và tài liệu liên quan đến Phật giáo, các hình tượng Phật, Bồ-tát, La-hán v.v… được chạm vẽ tinh vi, đẹp đẽ trên các vách đá, gây cho người ta có một ấn tượng mạnh mẽ rằng, đây chính là một di tích quí giá của Phật giáo, là nơi chứa đựng một nền mĩ thuật Phật giáo, và là nơi cung cấp nhiều tài liệu quan trọng để nghiên cứu Phật giáo.
(16) Thời Đông-Tấn (317-420): Tiếp theo thời Tây-Tấn (vừa trình bày trong phụ chú số 1 ở trên) là thời Đông-Tấn. Lúc đó ở vùng biên thùy phía Bắc và Tây Bắc của Trung-quốc có năm bộ tộc sinh sống gồm Hung-nô, Tiên-ti, Yết, Chi, và Khương (mà sách sử thường gọi một tên chung là tộc Ngũ-hồ). Trong năm bộ tộc này thì Hung-nô là hùng mạnh nhất. Từ lâu, các bộ tộc này vẫn dòm ngó vùng đất phì nhiêu của Trung-quốc, và lúc nào cũng lăm le tiến chiếm. Cuối thời Tây-Tấn là một thời kì vô cùng hỗn loạn vì nội bộ hoàng tộc tranh giành, chém giết nhau vì quyền lợi, triều đình rất suy yếu. Bộ tộc Hung-nô thừa dịp này, vào năm 316, đã tràn xuống đánh phá và tiêu diệt nhà Tây-Tấn, chiếm hết lãnh thổ vùng Giang-bắc, thành lập quốc gia cho Hung-nô, đặt quốc hiệu là Triệu (sử gọi là Tiền-Triệu). Lúc đó, một người trong hoàng tộc Tây-Tấn là Tư-mã Duệ, lui xuống vùng Giang-nam, tự xưng đế, lập nên vương triều Đông-Tấn, đóng đô ở thành Kiến-khang (tức Kiến-nghiệp, nay là Nam-kinh). Vương triều này truyền nối được 11 đời vua, kéo dài 104 năm.
(17) Cù Đàm Tăng Già Đề Bà: tức là Tăng Già Đề Bà (Samghadeva), người nước Kế-tân, tục tánh là Cù Đàm, cho nên gọi là Cù Đàm Tăng Già Đề Bà. Ngài tinh thông Ba Tạng, lại sở trường về A Tì Đàm Tâm Luận cùng Tam Pháp Độ Luận, trở thành một đại học giả của Hữu bộ. Khoảng niên hiệu Kiến-nguyên (365-385) nhà Tiền-Tần (thời đại Đông-Tấn), ngài đến Trung-quốc, cư trú tại Trường-an, trở thành một vị danh tăng phiên dịch luận điển Hữu bộ. Đời Hậu-Tần (384-471), đáp ứng lời mời của đại sư Tuệ Viễn (334-416), ngài lên núi Lô-sơn (tỉnh Giang-tây), đã dịch hai bộ luận quan trọng là A Tì Đàm Tâm Luận và Tam Pháp Độ Luận. Năm 397 ngài lại đến kinh đô Kiến-nghiệp của nhà Đông-Tấn, mọi người trong vương thất cùng các danh sĩ đều sùng kính; đặc biệt, ngài được Lang-gia vương Tư-mã Tuân cất tinh xá, mời tuyên giảng A Tì Đàm, rất nhiều danh tăng dự thính, tất cả đều khen ngợi. Vương lại mời hơn 40 vị sa môn ở kinh đô vân tập về tinh xá, lập đạo tràng, thỉnh ngài dịch lại bộ kinh Trung A Hàm. (Bộ kinh này trước đây đã được ngài Đàm Ma Nan Đề dịch tại Trường-an, nhưng văn nghĩa sai sót rất nhiều, chưa có dịp thuận tiện để tu chỉnh, nay ngài Tăng Già Đề Bà dịch lại do lời thỉnh cầu của Lang-gia vương.) Không có tài liệu nào cho biết về cuộc đời của ngài về sau này.
(18) Lô-sơn: là dãy núi ở bờ Nam sông Trường-giang, thuộc huyện Cửu-giang, tỉnh Giang-tây, Trung- quốc. Tương truyền, vua Hoàng Đế (2690?-2590?) đi tuần du, từng dừng chân tại núi này, nên nó cũng có tên là Tam-thiên-tử-chướng. Lại tương truyền, vào khoảng nhà Ân-Thương (1751?-1111?), có Khuông Tục tiên sinh cất nhà ẩn cư trong núi này để tu luyện đạo Tiên, về sau hóa làm chim bay đi, để lại căn nhà trống, từ đó núi này có tên là núi Lô (Lư). Núi này có vài mươi ngọn như Ngũ-lão, Hương-lô, Hán- dương, Bạch-vân, Song-kiếm, v.v…; có những hang như Khang-vương, Thê-hiền, Hổ-khê, v.v…; nhiều động như Bạch-lộc, Bạch-vân, Liên-hoa, v.v…; nhiều đài như Bát-nhã, Phiên-kinh, Văn-thù, v.v…, chỗ nào trông cũng tú lệ, là một thắng cảnh lừng danh từ xưa đến nay. Ngài An Thế Cao (đời vua Linh đế, thời Đông-Hán) thường vân du đến núi này, sau đó, tăng chúng cũng rất nhiều vị đến đây. Năm 376, môn nhân của ngài Đạo An (312-385, cao tăng thời Đông-Tấn) là Tuệ Vĩnh (332-414), đến núi này xây chùa Tây-lâm tại Hương-cốc. Năm 381, bạn đồng môn của ngài Tuệ Vĩnh là Tuệ Viễn (334-416), cũng đến núi này, xây chùa Đông-lâm. Năm 391, ngài Tuệ Viễn xây tinh xá Bát-nhã-đài, thờ tôn tượng đức Phật A Di Đà, qui tụ 123 vị cả tăng lẫn cư sĩ, đề xướng việc niệm Phật, lập nên Bạch-liên-xã, làm đạo tràng căn bản chuyên tu pháp môn Tịnh-độ. Từ đó, tăng tục lên núi ngày càng đông đúc, và Lô-sơn nghiễm nhiên trở thành nơi thánh địa của tông Tịnh Độ.
Ngài Tuệ Viễn cũng từng cho người đi Tây-vức thỉnh kinh, hoặc mời các vị cao tăng Tây-vức đến Lô- sơn dịch kinh, như ngài Tăng Già Đề Bà đã dịch A Tì Đàm Tâm Luận, Tam Pháp Độ Luận v.v…; ngài Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra, 359-429, người Bắc Ẳn, đến Trung-quốc năm 408) đã dịch Đạt Ma Đa La Thiền Kinh; ngài Phật Đà Da Xá (Buddhayasas, ?-?, người nước Kế-tân, đến Trung-quốc năm 408) cũng thường đến đây hành hóa. Tăng chúng từ bốn phương qui tụ về đây tu học, có đến 3.000 người! Bởi vậy, Lô-sơn vào thời ấy không những là nơi thánh địa của tông Tịnh Độ, mà còn là một đạo tràng dịch kinh quan trọng; hơn nữa, nó còn là một đại trung tâm Phật giáo của Trung-quốc. Về sau, khi Hoàn Huyền (369-404, một vị loạn thần thời Đông-Tấn, năm 403 cử binh tấn công kinh đô Kiến-khang, ép vua An đế phải nhường ngôi, đổi tên nước là Sở, nhưng chưa được một năm thì lại bị nhà Tấn đánh bại và bị giết) đàn áp Phật giáo, đuổi hết chư tăng hoàn tục, thì riêng đạo tràng Lô-sơn, vì uy thế quá lớn cho nên vẫn được yên ổn. Ngoài giới Phật tử ra, các vị danh sĩ như Đào Tiềm (365-427), Lôi Thứ Tông (386- 488) v.v…, vì chán ghét cuộc thế loạn lạc, cũng đã tìm vào núi này ở ẩn. Lại như Vương Hi Chi (303- 361), một nhà đại thư pháp đương thời, cũng đã vào núi này kiến tạo chùa Qui-tông, thỉnh ngài Phật Đà Da Xá về trú trì.
Từ sau thời đại ngài Tuệ Viễn, sinh hoạt Phật pháp ở Lô-sơn trải qua các đời lại càng phong phú, nhiều tự viện được xây cất thêm, như chùa Đại-lâm ở ngọn Đại-phong, viện Từ-vân ở ngọn Ngọc-luyến, các chùa Lăng-vân và Lô-sơn ở ngọn Hán-dương, chùa Chiêu-ẩn ở ngọn Nam-lĩnh, chùa Hương-lô ở ngọn Hương-lô, chùa Phong-đảnh ở ngọn Trịch-bút, v.v…; rất nhiều danh tăng từng lập đạo tràng hoằng pháp, như ngài Đạo Bỉnh (365- 435, kế thừa ngài Tuệ Viễn) chủ trì Bạch-liên-xã, ngài Đạo Sinh (355- 434) mở pháp hội giảng kinh Niết Bàn (năm 430), ngài Pháp Qui vừa giảng kinh vừa lập đại giới đàn ở gần chùa Đông-lâm (khoảng 547-549), ngài Trí Giả (538-597) của tông Thiên Thai từng đến núi này hai lần để giảng pháp, số thính chúng nghe pháp đông đến năm ngàn, ngài Đạo Tín (580-651) từng trụ tích tại chùa Đại-lâm để hoằng hóa, ngài Trí Khải (533-610, môn đồ của ngài Trí Giả) cũng đã từng lên đây trùng tu chùa Tây-lâm và ở lại đó suốt hơn 20 năm chuyên giảng các kinh Pháp Hoa, Niết Bàn và Thập Tụng Luật, v.v… Tóm lại, trải qua 16 thế kỉ, từ thời Đông-Tấn cho đến thời đại nhà Thanh, Lô-sơn luôn luôn là một thánh địa, một thắng tích tráng lệ, một đạo tràng nguy nga của Phật giáo Trung-quốc. Vào thời kì cực thịnh, nơi đây có đến vài trăm ngôi tự viện và vài chục ngôi bảo tháp. Tuy những vị khởi sáng (Tuệ Vĩnh, Tuệ Viễn) thuộc khuynh hướng Tịnh Độ tông, nhưng giáo lí của các tông phái khác như Thiền, Luật, Thiên Thai v.v… cũng được truyền bá rộng rãi tại đây. Từ nhà Thanh về sau thì đạo tràng Lô-sơn suy yếu dần, chùa viện hoang phế dần, ngày nay chỉ còn khoảng hơn 80 ngôi chùa và vài ngôi bảo tháp mà thôi!
(19) Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra, 359-429): dịch ra Hán ngữ là Giác Hiền. Ngài là người Bắc- Ẳn, họ Thích, vốn là hậu duệ của Cam Lộ Phạn vương ở thành Ca-tì-la-vệ. Ngài xuất gia khi lên 17 tuổi, tinh cần tu học, thông thuộc mọi kinh điển, nhưng đặc chuyên về Thiền và Luật. Sau ngài sang nước Kế- tân, nhập môn học Thiền với ngài Phật Đại Tiên (Buddhasena). Tại đây ngài gặp ngài Trí Nghiêm (350- 427) từ Trung-quốc sang, cũng đang học Thiền với ngài Phật Đại Tiên, bèn đáp ứng lời mời của ngài Trí Nghiêm, năm 408, cùng về đến Trường-an (kinh đô nhà Tiền-Tần), chuyên truyền bá Thiền học. Lúc ngài đến thì nơi đây đã có ngài Cưu Ma La Thập đang dạy đồ chúng ước khoảng 3.000 người, tiếng tăm lừng lẫy. Hai ngài có tiếp xúc với nhau và bàn luận về Pháp Tướng học, nhưng sau đó, vì môn hạ của hai ngài không dung hợp nhau, nên ngài đã dẫn hơn 40 đệ tử đi về phương Nam, nhận lời mời của ngài Tuệ Viễn, lên núi Lô-sơn, dịch bộ Đạt Ma Đa La Thiền Kinh. Ớ đây vài năm, đến năm 415, ngài rời Lô-sơn để đến Kiến-khang, trú tại chùa Đạo-tràng, chuyên việc phiên dịch, cho đến khi viên tịch.
(20) Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh: Kinh Hoa Nghiêm, gọi tên đầy đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (Buddhavatamsaka-mahavaipulya-sutra), toàn bộ nguyên bản Phạn văn gồm mười vạn câu kệ, dịch ra Hán văn, trước sau có 3 bản:
- Lục Thập Hoa Nghiêm: cũng gọi là Cựu Hoa Nghiêm, gồm 60 quyển, do đại sư Phật Đà Bạt Đà La dịch vào năm 418 tại chùa Đạo-tràng ở Kiến-khang, dưới triều vua An đế (397-418) thời Đông-Tấn (317-420); bởi vậy, nó cũng được gọi là Tấn Kinh. Bố cục của kinh này chia thành 7 chỗ (thất xứ) 8 hội (bát hội); nội dung chia thành 34 phẩm. Nguyên bản Phạn văn của kinh Hoa Nghiêm vốn gồm 10 vạn (tức 100.000) kệ, nhưng khi ngài Chi Pháp Lãnh (?-?, thời Đông-Tấn, đệ tử của ngài Tuệ Viễn ởLô-sơn) mang về từ nước Vu-điền chỉ có 3 vạn 6 ngàn (tức 36.000) kệ của toàn bộ kinh, và đã được ngài Phật Đà Bạt Đa La dịch ra Hán văn thành bộ kinh Hoa Nghiêm 60 quyển như vừa nói trên.
- Bát Thập Hoa Nghiêm: cũng gọi là Tân Hoa Nghiêm, hay Đường Kinh, gồm 80 quyển, do pháp sư Thật Xoa Nan Đà (652-710) dịch ra Hán văn tại chùa Biến-không ở Lạc-dương (dịch từ năm 695, đến năm 699 thì hoàn tất), dưới triều nữ hoàng Võ Tắc Thiên (690-705). Ngài Thật Xoa Nan Đà (Siksananda) là người nước Vu-điền, tinh thông Ba Tạng, cả tiểu và đại thừa. Năm 695, đáp ứng lời mời của nữ hoàng Võ Tắc Thiên (soán ngôi của vua nhà Đường, tự lên ngôi hoàng đế năm 690, đổi quốc hiệu là Chu), ngài đã đến Lạc-dương (cũng gọi là Đông-đô hay Thần-đô, tức là kinh đô nhà Chu của Võ Tắc Thiên lúc bấy giờ), mang theo toàn bộ bản Phạn ngữ của kinh Hoa Nghiêm, trú tại chùa Biến-không, và đã dịch ra Hán ngữ thành bộ Bát Thập Hoa Nghiêm Kinh. Trong thời gian ngài dịch kinh, đích thân nữ hoàng Võ Tắc Thiên thường đến dịch trường để coi sóc và tự tay viết tựa đề của từng phẩm kinh. Các ngài Bồ Đề Lưu Chí (Bodhiruci, 562-727, người Nam Ẳn, đến Trường-an năm 693), Nghĩa Tịnh (635-713), Pháp Tạng (643-712) v.v… cũng tham gia vào công tác dịch kinh này. So với bộ Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh ở trên, bộ này đầy đủ hơn (gồm 7 chỗ, chín hội, và 39 phẩm), văn từ trong sáng, trôi chảy hơn, nghĩa lí bao trùm trọn vẹn, cho nên đã được lưu hành rộng rãi hơn. Nó cũng đã được tông Hoa Nghiêm chọn làm bộ kinh căn bản để xây dựng giáo nghĩa nền tảng cho tông phái.
- Tứ Thập Hoa Nghiêm: cũng gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, gọi tắt là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, gồm 40 quyển, do ngài Bát Nhã (Prajna, 734-?, người nước Kế-tân, đến Trung-quốc năm 781) dịch tại chùa Sùng-phước ở Trường-an, dưới triều vua Đường Đức-tông (780-805), từ năm 796, đến năm 799 thì dịch xong. Nguyên bản Phạn ngữ của kinh này, nguyên là bản chép tay của chính vua nước Sư-tử ở Nam-Ẳn. Năm 795, nhà vua đã cho sứ giả đem bản chép tay ấy sang Trường-an (sau khi lấy ngôi vua trở lại từ Võ Tắc Thiên, năm 705, nhà Đường đã dời kinh đô về lại thành Trường-an như cũ), tặng cho vua Đức-tông nhà Đường. Lúc ấy ngài Bát Nhã đã từ Quảng-châu về trú tại chùa Sùng-phước ở kinh đô Trường-an đã lâu; cho nên, sang năm 796, vua Đức-tông đã cho đem bản Phạn văn ấy đến chùa Sùng-phước, mệnh cho ngài Bát Nhã dịch ra Hán văn, tức là bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh. Bộ này tương đương với phẩm “Nhập Pháp Giới” trong cả hai bộ Lục Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm ở trên. Tuy nó chỉ gồm có một phẩm, nhưng chiếm đến hơn một phần tư toàn bộ kinh Hoa Nghiêm, cho nên đã nghiễm nhiên được coi là một bản dị dịch của kinh Hoa Nghiêm.
(21) Tam-Tần: tức ba triều đại ở miền Giang-bắc (phía Bắc sông Trường-giang) đều lấy tên là Tần; và để phân biệt, các sử gia đã gọi đó là Tiền-Tần, Hậu-Tần và Tây-Tần.
Như chúng tôi đã nói trong phụ chú số 16 ở trên, năm 316 tộc Hung-nô đã tiêu diệt nhà Tây-Tấn (265-316), chiếm cứ miền Giang-bắc (toàn vùng đất phía Bắc sông Trường-giang), thành lập một quốc gia cho tộc Hung-nô, lấy tên nước là Triệu, đóng đô ở thành Trường-an; sử gọi đó là Tiền-Triệu (304- 329). Lúc đó, một người trong hoàng tộc nhà Tấn là Tư-mã Duệ, đã kéo những người còn lại trong vương thất nhà Tấn, xuống phương Nam, chiếm miền Giang-nam (cũng gọi là Giang-tả, tức toàn vùng đất phía Nam sông Trường-giang), tự xưng đế, dựng nên triều đại Đông-Tấn (317-420) để tiếp nối triều đại Tây- Tấn, định đô ở thành Kiến-khang (tức Kiến-nghiệp, nay là Nam-kinh). Như vậy, kể từ năm 317 cho tới năm 436, nước Trung-quốc bị chia cắt thành hai miền Bắc và Nam, lấy sông Trường-giang làm ranh giới: Miền Giang-nam là lãnh thổ của vương triều Đông-Tấn, còn miền Giang-bắc là lãnh thổ của năm bộ tộc người thiểu số (Hung-nô, Tiên-ti, Yết, Chi, và Khương); mà sử gọi là Ngũ-Hồ. Năm bộ tộc này đều thành lập nhiều nước nhỏ khác nhau, mỗi ngày mỗi nhiều; mà con số chính thức của các sử gia thường ghi là có 16 nước (sử Trung-quốc gọi là “Ngũ-Hồ thập lục quốc”), gồm có: hai nước Triệu (nhị Triệu: Tiền-Triệu và Hậu-Triệu); ba nước Tần (tam Tần: Tiền-Tần, Hậu-Tần và Tây-Tần); bốn nước Yên (tứ Yên: Tiền-Yên, Hậu-Yên, Nam-Yên và Bắc-Yên); năm nước Lương (ngũ Lương: Tiền-Lương, Hậu-Lương, Tây-Lương, Nam-Lương và Bắc-Lương); Hạ; và Nhiễm-Ngụy. Thật ra không phải chỉ có 16 nước, vì ngoài 16 nước trên, sử sách còn ghi thêm 4 nước khác là Thành, Hán, Đại, và Tây-Yên; vả lại, trong số các nước này thì 3 nước Tiền-Lương, Tây-Lương và Bắc-Yên là do người Hán dựng lập, chứ không phải do các dân tộc thiểu số. Có lẽ vì vậy, bộ từ điển Từ Nguyên (trong phần phụ lục kê niên biểu các triều đại của lịch sử Trung-quốc), đã gọi chung các nước này là “Đông-Tấn liệt quốc” (các nước nhỏ dưới vương triều Đông-Tấn), chứ không gọi là “Ngũ-Hồ thập lục quốc”. Các nước này đã chia cắt lãnh thổ miền Giang-bắc để cai trị trong suốt 120 năm. Vậy, ba nước Tần (Tam-Tần) là 3 trong số nhiều nước nhỏ ở miền Giang-bắc dưới vương triều Đông-Tấn.
(22) Pháp Hỉ: là tên Hán dịch của ngài Đàm Ma Nan Đề (Dharmanandi). Ngài là người Tây-vức, xuất gia hồi còn nhỏ, thông minh mẫn nhuệ, học thông Ba Tạng, đặc biệt chuyên về Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm, rất được người đời kính trọng. Năm 384 ngài đến Trường-an (kinh đô nhà Tiền-Tần), cùng với hai ngài Đạo An và Trúc Phật Niệm, đã dịch hai bộ kinh Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm ra Hán văn. Đó là lần đầu tiên kinh Đại Bộ được phiên dịch. Hai bộ kinh này về sau được ngài Tăng Già Đề Bà hiệu đính, và lưu truyền đến ngày nay. Ngài được người đời trọng vọng, lại được vua Tiền-Tần là Phù Kiên dùng lễ mà đãi ngộ. Khi Phù Kiên bị Diêu Trành giết để lập nên nhà Hậu-Tần, ngài vẫn tiếp tục ở Trường-an để dịch kinh. Trong thời gian này ngài đã dịch A Dục Vuơng Tức Hoại Mục Nhân Duyên Kinh, Tam Pháp Độ Luận, và Tăng Già La Sát Tập Kinh. Đó là theo sự ghi chép của sách Lịch Đại Tam Bảo Kỉ; nhưng trong sách Luơng Cao Tăng Truyện lại ghi rằng, trong lúc Diêu Trành đang đánh vào lãnh thổ Tiền-Tần thì ngài liền rời Trường-an trở về Tây-vức, rồi không biết về sau ra sao.
(23) Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, 344-413): gọi tắt là La Thập, người nước Qui-tư (Kucha, nay là địa khu Sớ-lặc của tỉnh Tân-cương, phía Nam dãy núi Thiên-sơn), là một trong bốn vị cao tăng dịch kinh nổi tiếng nhất ở Trung-quốc. Song thân ngài đều xuất gia, đầy đủ đức hạnh. Ngài tuổi nhỏ đã thông minh mẫn tuệ, 7 tuổi theo mẹ xuất gia, sang Thiên-trúc tham học với khắp các bậc tôn túc. Lúc đầu ngài theo học tiểu thừa, sau chuyển sang đại thừa. Ngài nghe nhiều nhớ giỏi, mới 11 tuổi đã ngang nhiên đối luận với các danh gia ngoại đạo mà không chịu thua kém một ai, danh tiếng vang khắp Ngũ-Trúc, người đương thời gọi là thần đồng. Năm 20 tuổi ngài trở về Qui-tư, thọ giới cụ túc, được quốc vương nước ấy thờ làm thầy. Đức hạnh của ngài được đồn đãi đến Trung-quốc. Vua nhà Tiền-Tần là Phù Kiên nghe danh ngài, liền sai tướng Lữ Quang đem quân tiến đánh Qui-tư (năm 383) để rước ngài về Trường-an.
Lữ Quang đánh thắng Qui-tư và rước được ngài La Thập, nhưng khi về đến nửa đường thì được tin nhà Tiền-Tần đã bị diệt, nhà Hậu-Tần thay thế. Lữ Quang bèn không về Tần, mà dừng lại ở Lương-châu (tỉnh Cam-túc ngày nay), tự xưng vương (năm 386), đóng đô ở Cô-tàng (cũng gọi là Hà-tây, nay là phố Vũ-uy, Cam-túc), đặt tên nước là Lương (sử gọi là Hậu-Lương, 386-403). Thế là ngài La Thập cũng phải ở lại Cô-tàng với Lữ Quang. Sau đó, vua Hậu-Tần là Diêu Hưng (394-416) sai tướng Diêu Thạc Đức đem quân đánh Hậu-Lương và rước được ngài La Thập về Trường-an – đó là năm 401, và như vậy, ngài La Thập đã ở lại Cô-tàng đến 15 năm. Tại Trường-an, ngài được Diêu Hưng rất mực kính trọng. Ông tôn ngài làm quốc sư, cúng dường cho ngài gác Tây-minh và vườn Tiêu-dao để làm đạo tràng phiên dịch kinh điển. Ngài trú tại đây suốt 12 năm; đến năm 413 ngài thị tịch, thế thọ 70 tuổi.
Ngài Cưu Ma La Thập cùng với ngài Huyền Trang ở đời Đường sau này, đã được coi là hai vị thánh tăng dịch kinh vĩ đại, không những của riêng Trung-quốc mà của lịch sử Phật giáo nói chung. Tổng số kinh luận mà ngài La Thập đã dịch, các sách kinh lục liệt kê không giống nhau: Theo Xuất Tam Tạng Kí Tập, ngài đã dịch cả thảy 35 bộ, gồm 294 quyển; theo Lịch Đại Tam Bảo Kỉ, ngài đã dịch được 97 bộ, gồm 425 quyển; theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục, ngài đã dịch được 74 bộ, gồm 384 quyển. Các dịch phẩm của ngài, hầu hết là kinh luận đại thừa, trong đó có những bộ chính yếu như: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La mật Kinh, Kim Cương Bát Nhã Ba La mật Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, A Di Đà Kinh, Di Lặc Thành Phật Kinh, Tọa Thiền Tam Muội Kinh, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, Phạm Võng Kinh, Thập Tụng Luật, Thập Trụ Tì Bà Sa Luận, Đại Trí Độ Luận, Thành Thật Luận, Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, Bách Luận, v.v… Các bộ luận kể trên đều là những bộ luận đại thừa được phiên dịch lần đầu tiên tại Trung-quốc. Các bộ kinh Bát Nhã, Pháp Hoa, A Di Đà, v.v… đã có ảnh hưởng lớn lao tới các tông phái Phật giáo ở đời sau (như các tông Tam Luận, Thiên Thai, Thành Thật, Tịnh Độ, và các học phái như Tứ Luận, Bồ Tát Thiền, tín ngưỡng Di Lặc v.v…). Bởi vậy, các dịch phẩm của ngài đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử phát triển của Phật giáo Trung-quốc nói riêng, và của toàn vùng Đông Nam Á nói chung.
Lại nữa, đạo tràng dịch kinh của ngài Cưu Ma La Thập, không phải chỉ là nơi chuyên việc dịch kinh, mà còn là một trung tâm giảng thuyết và giáo dục Phật giáo. Bởi vậy, nơi đạo tràng của ngài lúc nào cũng có hàng ngàn môn đồ vân tập tu học; ví dụ: khi ngài dịch kinh Đại Phẩm Bát Nhã, hội trường có 500 người dự học; kinh Duy Ma Cật có 1.200 người; kinh Pháp Hoa có 2.000 người; v.v… Môn đồ của ngài có tất cả hơn 3.000 người, trong số đó có 80 vị được gọi là “đạt nhân”, và 4 vị nổi bật hơn cả, từng được người đương thời xưng là “tứ thánh”, đó là các ngài Tăng Triệu (384-414), Tăng Duệ (?-?), Đạo Sinh (355-434) và Đạo Dung (?-?).
(24) Phật Đà Da Xá (Buddhayasas, ?-?): là vị cao tăng chuyên dịch kinh ở Trung-quốc vào thời đại Đông-Tấn. Ngài người nước Kế-tân, 13 tuổi xuất gia, đến 15 tuổi thì mỗi ngày có thể tụng hai, ba vạn câu kinh, 27 tuổi mới thọ giới cụ túc. Ngài thông hiểu khắp các kinh luận đại, tiểu thừa, chuyên cần đọc tụng, không biết mệt mỏi. Khi ngài Cưu Ma La Thập còn vân du tham học, từng thờ ngài làm thầy. Năm 408 (tức năm thứ 10 niên hiệu Hoằng-thỉ của nhà Hậu-Tần), đáp ứng lời thỉnh cầu của La Thập, ngài đã đến Trường-an để giúp ngài La Thập dịch kinh Thập Trụ. Ngài cũng đã cùng với ngài Trúc Phật Niệm dịch các bộ luật Tứ Phần Tăng Giới Bản, Tứ Phần Luật, và kinh Trường A Hàm. Sau đó ngài trở về lại nước Kế-tân, tìm được bản Phạn ngữ của kinh Hư Không Tạng, bèn gửi cho những người khách buôn đem sang tặng chư tăng ở Lương-châu (tỉnh Cam-túc). Về sau không biết ngài ra sao.
(25) Trúc Phật Niệm (?-?): là vị cao tăng ở thời đại Đông-Tấn. Ngài quê ở Lương-châu (phố Vũ-uy, tỉnh Cam-túc), xuất gia từ lúc còn nhỏ, tinh chuyên tu học, lập chí bền chắc, thông hiểu cả nội điển lẫn ngoại điển. Trong khoảng từ năm 365 đến 384, hai ngài Tăng Già Bạt Trừng và Đàm Ma Nan Đề tới Trường- an (kinh đô nhà Tiền-Tần) dịch kinh, thì ngài đảm nhiệm chức “truyền ngữ”. Sang đời Hậu-Tần, ngài trở thành vị pháp sư dịch kinh chính thức. Những dịch phẩm của ngài có: Bồ Tát Anh Lạc Kinh, Thập Trụ Đoạn Kết Kinh, Xuất Diệu Kinh, Bồ Tát Xử Thai Kinh, Trung Âm Kinh, v… Về sau ngài viên tịch tại Trường-an, nhưng không biết vào năm nào.
BÀI TẬP
- Công tác dịch kinh ở Trung-quốc được bắt đầu do những vị pháp sư nào?
- a/ Những vị pháp sư nào đã dịch luật bản vào thời đại Tam-quốc? b/ Vị sa môn nào đã đến Đông Ngô dựng chùa Kiến-sơ? c/ Vị nào đã dịch kinh Vô Lượng Thọ?
- Trong thời đại Tây Tấn, vị dịch sư nào được người đời tôn hiệu là Đôn Hoàng Bồ Tát? Những bộ kinh ngài đã dịch gồm những loại nào?
- a/ Vị nào đã dịch các kinh Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm? b/ Vị nào đã dịch kinh Lục Thập Hoa Nghiêm?
- a/ Ba bộ luận nào đã được tông Tam Luận chọn làm nơi y cứ? b/ Vị nào đã dịch 100 quyển Đại Trí Độ Luận?
| mục lục sách | bài tiếp theo |