GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Cấp Hai
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và chú thích bổ túc
| mục lục sách |
Bài 28
CÁCH PHÁN GIÁO của CÁC TÔNG
(phần 2)
CÁCH PHÁN GIÁO của TÔNG TỊNH ĐỘ(1)
Đại sư Đàm Loan chia ra có hai con đường: khó đi và dễ đi. Hoàn toàn bằng vào tự lực mà cầu không thối chuyển, đó là con đường khó đi, ví như đường dài mà cứ đi bộ, thì thật là vất vả; đó là chỉ cho các pháp môn khác mà nói. Nương theo nguyện lực của Phật mà cầu sinh về Tịnh-độ, liền được vãng sinh, được nhập vào tập thể chánh định đại thừa; đây là con đường dễ đi, ví như đi thuyền trên sông thì thật là an vui; đó là chỉ cho pháp môn Tịnh Độ mà nói. Đại sư Đạo Xước thì phân biệt có hai cửa Thánh Đạo và Tịnh Độ. Ở thế giới Ta-bà này, vào thời mạt pháp, cách các bậc thánh quá xa, mà người tu hành muốn có lí giải tinh diệu, trước là dứt trừ phiền não vô minh rồi sau chứng quả, đó là cửa Thánh Đạo. Nương theo nguyện lực của đức Phật A Di Đà mà vãng sinh về thế giới Cựa-lạc, được không thối chuyển, thẳng đến thành Phật, đó là cửa Tịnh Độ. Thánh Đạo thì gian nan, mà Tịnh Độ thì dễ dàng. Quan điểm này cùng với hai con đường khó đi và dễ đi ở trên rất giống nhau; cả hai đều nói lên chỗ sai khác giữa sự hoàn toàn nhờ vào tự lực và sự nương nhờ cả vào tha lực.
CÁCH PHÁN GIÁO của TÔNG LUẬT(2)
Tông này chia toàn bộ giáo pháp của đức Phật dạy làm hai loại: hóa giáo và chế giáo. Hóa nghĩa là hóa đạo chúng sinh. Phàm các kinh luận có nêu lên các pháp môn về thiền định, trí tuệ, nhằm dứt trừ phiền não vô minh, chứng nhập chân lí, đều thuộc loại hóa giáo. Trong loại này lại phân ra có ba giáo: 1) Các kinh luận nói tánh của các pháp là không, vô ngã, gọi là “tánh không giáo”, hàm nhiếp tất cả giáo pháp tiểu thừa. 2) Các kinh luận nói tướng của các pháp vốn không, chỉ vì chúng sinh vọng chấp mà thấy có, gọi là “tướng không giáo”, hàm nhiếp tất cả giáo pháp đại thừa thấp cạn. 3) Các kinh luận nói các pháp ngoại trần vốn không, chỉ thức là thật có, gọi là “duy thức viên giáo ”, hàm nhiếp tất cả giáo pháp đại thừa cao sâu. Chế là chế định giới luật, như các bộ luật Tứ Phần, Ngũ Phần, Thập Tụng v.v…, là luật nghi do Phật chế định, nhằm thống lí chúng tăng, phòng ngừa các hành vi sai trái; tất cả các bộ luật đó đều thuộc loại chế giáo. Trong loại này lại phân ra có ba tông: 1) Bộ luật bản Thập Tụng Luật của Tát Bà Đa bộ, nói rõ tất cả các pháp là thật có, thuộc về “thật pháp tông”. 2) Bộ luật bản Tứ Phần Luật của Đàm Vô Đức bộ, nói tất cả các pháp chỉ có giả danh, thuộc về “giả danh tông”. 3) Luật sư1 Đạo Tuyên ở núi Chung-nam(3), đã y cứ vào bộ luật Tứ Phần, lấy chủng tử làm giới thể2, đề cao giới luật lên hàng đại pháp nhất thừa viên đốn, thuộc về “viên giáo tông”.
CÁCH PHÁN GIÁO của TÔNG MẬT(4)
Cách phán định của Mật tông, chỉ phân ra hai loại hiển và mật: Ứng hóa thân3của đức Nhu Lai đã vì hàng Bồ-tát Địa-tiền4 và hàng phàm phu của hai thừa, mà nói giáo pháp ba thừa; cho đến tha thọ dụng thân5 của Ngài đã vì hàng Bồ-tát Địa- thuợng, nói giáo pháp một thừa6, tất cả đều là hiển giáo. Tự thọ dụng thân7 của Ngài tự huởng đuợc niềm vui pháp lạc, đã nói lên cái cảnh giới trí tuệ nội chứng của Nhu Lai cho quyến thuộc của mình, gọi là mật giáo. Mặt khác, tất cả những giáo pháp do ứng hóa thân của Phật đã nói trong ba tạng tiểu và đại thừa, muời hai bộ kinh, những pháp môn nhu bốn sự thật, muời hai nhân duyên, sáu pháp qua bờ, muôn hạnh, đều là hiển giáo; các kinh nhu Đại Nhật, Kim Cang Đảnh, v.v… nói các pháp môn của hai bộ Kim(5) và Thai8(6), cho đến ấn(7) đà-la-ni9, nghi quĩ quán đảnh v.v…, đều là mật giáo.
CÁCH PHÁN GIÁO của TÔNG TAM LUẬN(8)
Các vị đại đức của tông này đều có cách phán giáo khác nhau: Ngài Bồ Đề Luu Chi cho rằng, đức Nhu Lai chỉ dùng một âm10 mà nói đủ tất cả pháp môn vô tận của đại và tiểu thừa. Ngài Cuu Ma La Thập cho rằng, đức Phật dùng viên âm11 nhung chỉ nói một pháp, rồi tùy theo tâm luợng của chúng sinh mà sinh khởi nhiều pháp môn sai biệt. Cả hai quan điểm trên đây đều đuợc gọi là “nhất âm giáo”. Đại su Cát Tạng12(9) đã cho rằng, kinh Hoa Nghiêm là pháp luân căn bản; còn các kinh đại, tiểu thừa khác đều là pháp luân chi mạt; trong khi đó, kinh Pháp Hoa qui về nhất Phật thừa, là pháp luân thu nhiếp ngọn ngành qui về gốc rễ. Quan điểm của đại su Cát Tạng nhu trên đuợc gọi là “tam luân giáo”.
Trong tám tông phái đại thừa ở Trung-quốc, chỉ có tông Thiền(10) là không lập văn tự, cũng không phán giáo; còn bảy tông phái kia, cách phán giáo của họ đã đuợc trình bày sơ luợc nhu trên. Còn nhiều các ngài khác nữa cũng có cách phán giáo riêng theo kiến giải của họ, chua khảo sát đầy đủ đuợc. Cho nên ngài Thanh Luơng quốc su13 đời Đuờng đã không chủ truơng phân biệt giáo thuyết, từng nói rằng, “Pháp vũ của đức Như Lai chỉ có một vị, tuy là tùy cơ nói pháp, nhưng cuối cùng vẫn qui về lẽ thật duy nhất, có gì mà phải phân chia?” Quí vị hành giả nên biết có cái dị ở trong cái đồng, và có cái đồng ở trong cái dị, đó mới là cái học chân thật.
CHÚ THÍCH
- Người xuất gia rõ suốt tạng Luật, tinh chuyên giới luật, gọi là “luật sư”.
- Sau khi được truyền giới, giới tử cảm nhận được trong tự thân có một năng lực ngừa điều sai quấy, ngăn chận lỗi lầm; cái năng lực ấy gọi là “giới thể ”. Giới thể được đề cập ở đây là loại chủng tử giới ở trong thức a-lại-da; nó không phải là sắc, cũng không phải là tâm.
- Đức Như Lai thị hiện ra thân Phật để giáo hóa chúng sinh, gọi đó là “ứng thân”; thị hiện ra chín thân trong chín cảnh giới khác, gọi đó là “hóa thân ”; hợp cả hai trường hợp lại gọi chung là “ứng hóa thân”.
- Trước khi lên bậc Sơ-địa thì gọi là “Địa-tiền”; đó là hàng Bồ-tát phàm phu. Từ bậc Sơ-địa trở lên thì gọi là “Địa-thượng ”; đó là hàng Bồ-tát pháp thân.
- Báo thân của Phật có hai loại khác nhau: tự thọ dụng và tha thọ dụng. Thân tự thọ dụng chứng nhập niềm vui pháp lạc, gọi là “báo thân tự thọ dụng ”. Ứng hiện thân Bồ-tát từ Sơ-địa trở lên, gọi là “báo thân tha thọ dụng”.
- Nhất thừa tức là nhất Phật thừa.
- Xem chú thích số 5 ở trên.
- Kim-cang giới và Thai-tạng giới, gọi tắt là Kim và Thai. Cảnh giới Kim-cang biểu trưng cái ý nghĩa kim cang không thể bị hủy hoại, dùng để chỉ cho trí tuệ kiên cố, chỉ có thể phá trừ phiền não chứ không có gì có thể hủy hoại nó được; giống như kim cương vậy. Cảnh giới Thai-tạng biểu trưng cái ý nghĩa hàm nhiếp chứa đựng, dùng để chỉ cho lí thể rộng lớn, thu nhiếp cả muôn đức, giống như thai tạng vậy.
- “Đà-la-ni ” dịch là tổng trì, năng trì, hay năng già; nghĩa là gìn giữ tất cả thiện pháp không để cho tiêu mất, và không để cho các ác pháp sinh khởi. “Đà-la-ni ấn” tức là sự ấn chứng phương pháp tu tập nhẫn đà-la-ni trong bốn loại đà-la-ni (xin xem lại phụ chú số 5, bài 7, sách GKPHII, q. thượng – HC), có nghĩa là nhẫn trụ ở lí thật tướng, nhiên hậu dùng cái ấn thật tướng này để ấn chứng kinh điển sâu xa của đại thừa.
- “Nhất âm ” nghĩa là chỉ dùng một thứ âm thanh mà thôi.
- Âm thanh của Phật tròn đầy mầu nhiệm, cho nên gọi là “viên âm ”.
- Đời nhà Tùy, đại sư Cát Tạng ở chùa Gia-tường, huyện Cối-kê, vì vậy ngài cũng được người đời lấy tên chùa mà xưng ngài là đại sư Gia Tường. Ngài là tổ khai sáng tông Tam Luận.
- Vị tổ thứ tư của tông Hoa Nghiêm là đại sư Trừng Quán trú ở núi Ngũ-đài, được vua Đường Đức- tông ban hiệu là Thanh Lương quốc sư.
PHỤ CHÚ
(01) Tông Tịnh Độ: là một tông phái lớn của Phật giáo Trung-quốc, lấy sự vãng sinh về cõi Cực-lạc của đức Phật A Di Đà làm mục đích. Nguyên thỉ, từ “tịnh độ ” chỉ có nghĩa là Phật độ, là các cõi nước thanh tịnh của chư Phật, do thành tựu đạo quả giác ngộ mà có; trái lại với “uế độ ” là các cõi nước dơ bẩn, xấu ác, nơi cư trú của các loài chúng sinh đầy phiền não, nghiệp chướng nặng nề. Từ “tịnh độ ” được nói tới nhiều trong kinh điển đại thừa, vì nó mang một ý nghĩa tích cực, là tuy an trụ trong cảnh giới niết bàn mà chư Phật ở đó đều không ngừng hóa độ chúng sinh. Tịnh độ cũng là nơi hàng Bồ-tát tu tập để thành tựu quả vị Bồ đề Vô thượng; hay nói cách khác, đó là nơi chư Phật ở thời kì nhân địa tu Bồ-tát đạo, thệ nguyện thành Phật, trang nghiêm Phật độ và hóa độ chúng sinh thành tựu Phật đạo. Bởi vậy, bất cứ nơi nào có chư Phật và Bồ-tát cư trú, thì nơi ấy tức là tịnh độ; chúng sinh ở nơi nào mà diệt trừ hết phiền não, không còn khởi tội ác, thân tâm thanh tịnh, không còn cấu nhiễm, trí tuệ sáng tỏ, thì nơi đó là tịnh độ. Cho nên trong khắp mười phương đều có tịnh độ.
Riêng tông Tịnh Độ thì gọi thế giới Cực-lạc của đức Phật A Di Đà là cõi Tịnh-độ, vì mục đích tu trì của tông phái này là vãng sinh về thế giới Cực-lạc. Tín đồ của tông Tịnh Độ đều chuyên trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật và cầu nguyện sẽ được vãng sinh về thế giới ấy. Lối gọi này đã quá phổ thông trải qua bao thế kỉ, cho nên, từ trước đến nay, hễ nói tới “Tịnh-độ ” là người ta nghĩ ngay đó là thế giới Cực-lạc. Tông Tịnh Độ cho rằng, cõi Tịnh-độ là một quốc độ có thật ở phương Tây, hoàn toàn thanh tịnh, chúng sinh được vãng sinh về đó thì chỉ hưởng toàn sự an vui, không hề có sự đau khổ, âu lo, phiền muộn nào như ở thế giới Ta-bà uế trược này. Giáo chủ của cõi ấy, sự trang nghiêm của cõi ấy, chúng sinh và đời sống ở cõi ấy, sự tồn tại vĩnh cửu của cõi ấy v.v…, đều được thuật rõ trong kinh A Di Đà.
Tư tưởng về cõi Tịnh-độ ở phương Tây là y cứ vào các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ (đều do Phật nói tại núi Kì-xà-quật, gần thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà), và A Di Đà (Phật nói tại tu viện Kì-viên, thành Xá-vệ, nước Kiều-tát-la). Sau khi Phật diệt độ khoảng 900 năm, ở Ẳn-độ, Bồ-tát Thế Thân đã biên soạn tác phẩm Vãng Sinh Tịnh Độ Luận, để nối tiếp hai vị Bồ-tát Mã Minh và Long Thọ ở các thế kỉ trước đó, cùng xưng tán cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của cõi Tịnh-độ, và khuyến khích mọi người nên cầu nguyện vãng sinh về thế giới ấy.
Ớ Trung-quốc, từ những thế kỉ đầu Tây lịch, các kinh căn bản của tông Tịnh Độ đã được truyền vào. Năm 179 (đời Hậu-Hán), tại kinh đô Lạc-dương, hai ngài Chi Lâu Ca Sấm và Trúc Phật Sóc đã dịch kinh Bát Chu Tam Muội ra Hán văn; và tư tưởng “cầu vãng sinh Tịnh-độ ” ở Trung-quốc được coi là bắt nguồn từ đó. Tuy nhiên, kinh Bát Chu Tam Muội mới chỉ nói tới pháp môn tinh chuyên niệm Phật để được thấy Phật A Di Đà ở cõi Tây-phương, chứ chưa trình bày về cảnh trang nghiêm của cõi Tịnh-độ. Vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 (thời đại Tam-quốc), cư sĩ Chi Khiêm (ở kinh đô Kiến-nghiệp của nước Ngô) đã dịch bộ Đại A Di Đà Kinh (2 quyển), đồng thời, ngài Khương Tăng Khải (ở kinh đô Lạc-dương của nước Tào- Ngụy) cũng dịch kinh Vô Lượng Thọ (2 quyển), trình bày các lời thệ nguyện của Phật A Di Đà trong thời kì nhân địa. Đó là kinh điển trọng yếu của tông Tịnh-độ. Trong khoảng nửa sau thế kỉ thứ 3 (thời Tây- Tấn), ngài Trúc Pháp Hộ dịch kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác (2 quyển), nội dung tương tợ như kinh Đại A Di Đà ở trên. Ngoài ra, các kinh Tuệ Ân Tam Muội và Vô Lượng Môn Vi Mật Trì (do Chi Khiêm dịch), Đức Quang Thái Tử, Quyết Định Tổng Trì, A Di Đà Phật Kệ (do Trúc Pháp Hộ dịch), cũng có nội dung liên quan đến đức Phật A Di Đà và thế giới Cực-lạc.
Vào nửa đầu thế kỉ thứ 5, ngài Cưu Ma La Thập (ở kinh đô Trường-an, nước Diêu-Tần) đã dịch kinh A Di Đà và luận Thập Trụ Tì Bà Sa, ngài Đàm Vô Sấm (ở nước Bắc-Lương) dịch kinh Bi Hoa, ngài Bảo Vân (nước Lưu-Tống) dịch kinh Tân Vô Lượng Thọ, ngài Cương Lương Da Xá (nước Lưu-Tống) dịch kinh Quán Vô Lượng Thọ, đều có nội dung liên quan đến đức Phật A Di Đà và cảnh giới Cực-lạc, cùng cách thức tu tập để được vãng sinh về cõi ấy. Đến đó thì các kinh điển liên quan đến tông Tịnh Độ được coi là đã được phiên dịch đầy đủ, và ba bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ, A Di Đà, được coi là ba kinh căn bản của tông Tịnh Độ (Tịnh Độ tam bộ kinh).
Nguyên thỉ, tín ngưỡng về Tịnh-độ ở Trung-quốc gồm hai loại: Di Lặc Tịnh-độ và Di Đà Tịnh-độ. Tín ngưỡng về Di Lặc Tịnh-độ khởi nguồn từ ngài Đạo An (314-385) ở thời đại Đông-Tấn. Ngài đã viết bộ Tịnh Độ Luận (6 quyển) để xiển dương pháp môn cầu vãng sinh về cõi Tịnh-độ của đức Di Lặc ở cõi trời Đâu-suất. Hai ngài Huyền Trang và Khuy Cơ ở thời đại nhà Đường cũng chuyên hành trì pháp môn này; nhưng từ sau đó thì số người tu tập theo ngày càng ít dần, mà người hoằng hóa cũng không có, nên tín ngưỡng về Di Lặc Tịnh-độ trở nên suy tàn; trong khi đó thì tín ngưỡng về Di Đà Tịnh-độ ngày càng hưng thịnh, trở thành đại biểu cho tất cả cõi Tịnh-độ của chư Phật.
Tuy kinh điển liên quan đến tín ngưỡng Di Đà Tịnh-độ đã xuất hiện ở Trung-quốc từ những thế kỉ đầu Tây lịch, nhưng phải đến khoảng cuối thế kỉ thứ 4 đầu thế kỉ thứ 5 (thời đại Đông-Tấn), tín ngưỡng này mới thực sự được hoằng dương. Vào thời đó, đại sư Tuệ Viễn (334-416) ở chùa Đông-lâm, núi Lô- sơn (tỉnh Giang-tây) đã thành lập hội Niệm Phật, gọi là Bạch Liên Xã, qui tụ 123 hội viên đầu tiên, gồm cả tăng sĩ lẫn cư sĩ có cùng một chí nguyện, tinh chuyên lễ bái và niệm hồng danh đức Phật A Di Đà, cầu vãng sinh về cõi Cực-lạc. Đó là hội Niệm Phật đầu tiên, cũng là bước đầu trong tiến trình hình thành tông Tịnh Độ ở Trung-quốc; và ngài Tuệ Viễn đã được coi là thỉ tổ của tông này. Đầu thế kỉ thứ 6 (đời Bắc Ngụy, thời đại Nam-bắc-triều) ngài Bồ Đề Lưu Chi đến Trung-quốc, dịch tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sinh Kệ (tức Vãng Sinh Tịnh Độ Luận) của Bồ-tát Thế Thân, rồi trao bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ và bộ luận này cho đại sư Đàm Loan (476-542?). Đại sư Đàm Loan đã soạn quyển Vãng Sinh Luận Chú để chú giải bộ luận trên, rồi y cứ vào bộ Thập Trụ Tì Bà Sa Luận của Bồ-tát Long Thọ mà nêu rõ hai con đường khó đi (tức tự lực) và dễ đi (tức tha lực) khác nhau, chủ trương nương tựa vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà, chuyên tinh trì danh niệm Phật để cầu nguyện vãng sinh về Tịnh-độ; chính đó là con đường phương tiện, dễ đi trong đời năm trược xấu ác này. Do đó, ngài Đàm Loan đã được coi là người xác lập giáo nghĩa căn bản cho tông Tịnh Độ.
Đến thế kỉ thứ 7 (triều đại nhà Đường), ngài Đạo Xước (562-645) kế thừa giáo chỉ của ngài Đàm Loan, cực lực đề cao nguyện lực của Phật, chủ xướng tư tưởng mạt pháp để nhấn mạnh thuyết “thời giáo tương ưng” (giáo học phải phù hợp với thời đại), tu tập pháp môn Tịnh Độ chính là “yếu lộ” của thời đại. Ngài đã viết tác phẩm An Lạc Tập để giải tỏa những ý nghĩ sai lầm của nhiều người, và khai thị cái “yếu lộ ” ấy của chúng sinh trong thời mạt pháp. Ngài cũng đã y cứ vào thuyết “hai đường khó và dễ” (nan, dị nhị đạo) của ngài Đàm Loan mà đề xướng cách phán giáo “hai cửa Thánh-đạo và Tịnh-độ” (Thánh-đạo, Tịnh-độ nhị môn). Kế tiếp, ngài Thiện Đạo (613-681) kế thừa tư tưởng của hai ngài Đàm Loan và Đạo Xước, chú sớ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, giải trừ những ngộ nhận xưa nay, xác lập hai hạnh tu tập là chánh hạnh (Phật A Di Đà là đối tượng chuyên nhất) và tạp hạnh (ngoài Phật A Di Đà còn có chư Phật và Bồ-tát khác), kiện toàn giáo nghĩa cũng như giáo tướng, đặt định cơ sở và hệ thống giáo lí độc lập cho tông Tịnh Độ. Tiếp đó, ngài Hoài Cảm (?-?) soạn tập Tịnh Độ Quần Nghi Luận; sau nữa lại có ngài Thiếu Khang (?-805), cũng tận lực hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Trước sau 5 vị đại sư Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Hoài Cảm, và Thiếu Khang, được tôn xưng là “Năm vị tổ đầu tiên” (chấn đán ngũ tổ) của tông Tịnh-độ.
Năm 719, ngài Tuệ Nhật (680-748) từ Ẳn-độ trở về Trường-an, thấy các vị bên tông Thiền coi nhẹ pháp môn Tịnh Độ, cho đó chỉ là pháp phương tiện để dẫn dắt hạng ngu si, bèn cực lực phản đối. Ngài đề xướng con đường tất yếu phải là niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh-độ, chủ trương “Giới Tịnh tịnh hành, Thiền Tịnh song tu, Giáo Thiền nhất trí”, đem tất cả công đức tu hành đều hồi hướng về mục đích vãng sinh Tịnh-độ. Tư Tưởng này sau đó đã được các ngài Thừa Viễn (712-802), Pháp Chiếu (?-?, đệ tử ngài Thừa Viễn), Phi Tích (?-?), v.v… kế thừa, lấy pháp môn Niệm Phật Tam Muội làm thiền môn thâm diệu, bài xích các đệ tử tông Thiền “bụng trống rỗng mà tâm cao ngạo” (khôngphúc cao tâm).
Như vậy, cho đến thời đại nhà Đường, tông Tịnh Độ ở Trung-quốc được phân thành ba hệ thống giáo học: 1) Hệ thống Tuệ Viễn (gọi là Tuệ Viễn lưu), chú trọng pháp môn “quán tưởng niệm Phật”; 2) Hệ thống Thiện Đạo (gọi là Thiện Đạo lưu), chú trọng pháp môn “khẩu xưng niệm Phật”; 3) Hệ thống Tuệ Nhật (gọi là Từ Man lưu), chú trọng pháp môn “thiện căn niệm Phật”, muôn hạnh đều tu tập. Chủ trương “Thiền Tịnh song tu” của ngài Tuệ Nhật, về sau cũng được đông đảo đệ tử Thiền môn hưởng ứng hành trì; vào thời Ngũ-đại (907-960) và Tống (960-1279), lại càng hưng thịnh, mà nổi tiếng hơn cả là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975). Trong thời kì này, pháp môn Tịnh Độ cũng được hành trì cả ở tông Thiên Thai.
Ớ các triều đại Nguyên (1260-1368) và Minh (1368-1644), tư tưởng “Thiền Tịnh song tu” lại càng được lưu hành rộng rãi, do công đức hoằng dương của các vị danh tăng như Trung Phong Minh Bản (1263-1323), Thiên Như Duy Tắc (1286-1354), Sở Sơn Thiệu Kì, Không Cốc Cảnh Long (?-?), Nhất Nguyên Tông Bản (?-?), Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615), Hám Sơn Đức Thanh (1546-1623), Cổ Sơn Nguyên Hiền (1578-1657), v.v… Tông Thiên Thai, các ngài Liên Am Đại Hựu (1334-1407), UKhê Truyền Đăng (?-?), Linh Phong Trí Húc (1599-1655), v.v… cũng đều soạn sách để hiển dương giáo nghĩa Tịnh Độ; trong đó, nổi tiếng hơn cả là ngài Trí Húc (tức Ngẫu Ích), đã đem ba pháp học Thiền, Giáo và Luật qui về một pháp môn Tịnh Độ, đề xướng tư tưởng “Tam học nhất nguyên”.
Vào triều đại nhà Thanh (1644-1911), tín ngưỡng Tịnh Độ phần nhiều do giới cư sĩ đề xướng. Trong khoảng các vua Khang Hi và Càn Long, có ngài Tư Tề Thật Hiền (tức Tỉnh Am, 1686-1734), thừa kế đạo phong của ngài Châu Hoằng, lập Liên Xã ở Hàng-châu, giáo hóa quần chúng xa gần, rất được mọi người khâm ngưỡng. Vào buổi đầu thời Dân-quốc, đại sư Ẳn Quang (1860-1940) chủ trương rằng, pháp môn Tịnh Độ chính là bản hoài của đức Phật ra đời. Ngài tận lực đối với sự nghiệp cứu tế xã hội, khiến cho hưng khởi phong trào lập hội Niệm Phật trong các giới tăng tục ở các địa phương. Sau khi chính phủ Dân-quốc dời ra đảo Đài-loan, tín ngưỡng về Tịnh Độ vẫn tiếp tục phát triển.
(02) Tông Luật: Đây là một tông phái đại thừa được thành lập ở Trung-quốc, y theo các tịnh giới trong bộ Tứ Phần Luật làm căn bản hành trì, lấy diệu lí nhất thừa viên đốn làm chỉ qui tu tập.
Giới luật đã được đức Phật chế định hoàn chỉnh ngay từ thời Ngài còn tại thế; sau khi Phật nhập diệt, tôn giả luật sư Ưu Ba Li đã kết tập và hình thành Luật tạng. Lúc đó tôn giả đã chia làm 80 lần để tụng lại trọn vẹn mọi giới điều Phật đã chế định, làm thành bộ Bát Thập Tụng Luật, là bộ luật nguyên thỉ và căn bản của Giáo đoàn Phật giáo. Bộ luật này được nối tiếp truyền thừa cho đến tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) dưới triều đại vua A Dục (thế kỉ thứ 3 tr. TL), thì có sự biến chuyển. Nguyên vì, tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Phật giáo Nam-truyền nói đó là tôn giả Mục Kiền Liên Tử Đế Tu – Moggaliputta-tissa) có năm vị đệ tử thuộc hàng cao túc (được gọi là “đồng thế ngũ sư”), đối với Luật học đều có kiến giải bất đồng, bèn đem bộ Bát Thập Tụng Luật, chọn lấy những phần phù hợp với kiến giải riêng, mỗi vị làm thành một bộ luật riêng của mình. Do đó, từ bộ Bát Thập Tụng Luật nguyên thỉ, đến đây đã bị chia thành năm bộ, gọi là “Năm Bộ Luật”: Đàm Vô Đức bộ, Tát Bà Đa bộ, Di Sa Tắc bộ, Ca Diếp Di bộ, và Ma Ha Tăng Kì bộ. (Xin xem lại chú thích số 9, bài “Tổng Hợp Yếu Chỉ Các Bài 22, 23 và 24”, sách GKPH I.) Cả năm bộ luật ấy (mỗi bộ đều gồm có phần giới bản và phần quảng luật) đều lần lượt được truyền vào Trung-quốc – ngoại trừ phần quảng luật của Ca Diếp Di bộ là chưa được truyền.
Vào năm 222 (dưới triều vua Văn đế nhà Tào-Ngụy), ngài Đàm Ma Ca La (Dharmakala) đến Lạc- dương, thấy tăng chúng chỉ biết cạo đầu, đắp y mạn, không có giới luật để hành trì, bèn phát nguyện hoằng truyền giới luật. Nhưng cũng phải tới năm 250 (đời vua Thiếu đế nhà Tào-Ngụy), ngài mới dịch được bộ Tăng Kì Giới Bản, và đó là tác phẩm Luật được dịch đầu tiên ở Trung-quốc. Rồi sau đó, hai ngài Khương Tăng Khải (Sanghavar-man) và Đàm Đế (Dharmatrata) cùng phiên dịch bộ Đàm Vô Đức Tạp Yết Ma Bấy giờ quí ngài mới thỉnh 10 vị Phạn tăng, lập đàn giới để tác pháp truyền giới cho chúng tăng; đó là đàn truyền giới đầu tiên ở Trung-quốc. Năm 404 (dưới triều đại nhà Diêu- Tần), ngài Phất Nhã Đa La (Punyatara) đã tụng bộ Thập Tụng Luật của Tát Bà Đa bộ cho ngài Cưu Ma La Thập dịch; nhưng khi dịch được hơn một nửa thì ngài Phất Nhã Đa La viên tịch, ngài Đàm Ma Lưu Chi (Dharma- ruci) được mời tụng tiếp phần còn lại để ngài La Thập dịch, trọn bộ gồm 61 quyển. Đó là bộ quảng luật xuất hiện đầu tiên ở Trung-quốc. Năm 410 (nhà Diêu-Tần), hai ngài Phật Đà Da Xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm cùng dịch bộ Tứ Phần Luật (60 quyển) của Đàm Vô Đức bộ; năm 418 (triều vua An đế nhà Đông-Tấn), hai ngài Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) và Pháp Hiển cùng dịch bộ Ma Ha Tăng Kì Luật (40 quyển) của Ma Ha Tăng Kì bộ; năm 423 (triều vua Thiếu đế nhà Lưu-Tống), hai ngài Phật Đà Thập (Buddhajiva, tới Trung-quốc năm 423) và Trí Thắng cùng dịch bộ Ngũ Phần Luật (30 quyển) của Di Sa Tắc bộ. Tới đây, Luật tạng coi như đã được dịch gần như hoàn toàn ở Trung-quốc – chỉ có bộ quảng luật của Ca Diếp Di bộ là chưa được truyền tới, nên không có ở Trung-quốc.
Các bộ luật kể trên, sau khi được dịch, đã được chư tăng Trung-quốc y cứ vào đó mà tổ chức tăng đoàn. Trong các đời Ngụy, Tấn, luật Tăng Kì được thịnh hành ở vùng Giang-bắc, còn luật Thập Tụng thì thịnh hành ở vùng Giang-nam; sự thọ giới thì nương theo luật Tứ Phần, nhưng sinh hoạt của tăng chúng thì nương theo luật Tăng Kì và Thập Tụng. Tuy nhiên, càng về sau thì bộ luật Tứ Phần càng được thịnh hành hơn cả. Dưới triều vua Hiếu-văn đế (471-499) thời Bắc-Ngụy, bộ luật Tứ Phần được luật sư Pháp Thông (468-559) nhiệt tâm nghiên cứu và giảng giải. Đệ tử của ngài là Đạo Phú, đã theo lời giảng của thầy mà soạn thành tác phẩm Tứ Phần Luật Sớ. Đệ tử của ngài Đạo Phú là Tuệ Quang (468-537) lại tận lực hoằng truyền, khiến bột hưng phong trào học luật Tứ Phần. Đệ tử của ngài Tuệ Quang là Đạo Vân; đệ tử của ngài Đạo Vân là Đạo Chiếu; đệ tử của ngài Đạo Chiếu là Trí Thủ, đều nối tiếp nhau hoằng dương Tứ Phần Luật ở đời Tùy. Đến đời Đường thì toàn bộ giáo nghĩa Luật học được tập đại thành, và tông Luật được chính thức thành lập do đệ tử của ngài Trí Thủ là luật sư Đạo Tuyên (596-667).
Sau khi được thành lập, tông Luật tôn xưng ngài Đàm Vô Đức (tức Pháp Chánh tôn giả) là Tứ Phần Luật Chủ (tức thỉ tổ); tôn ngài Đàm Ma Ca La (tức Pháp Thời tôn giả) là sơ tổ của Luật tông Trung- quốc; ngài Pháp Thông là nhị tổ; kế tiếp là các ngài Đạo Phú, Tuệ Quang, Đạo Vân, Đạo Chiếu, Trí Thủ, Đạo Tuyên, cả thảy là 9 vị tổ.
Từ sau tổ thứ sáu là Đạo Vân thì tông Luật bắt đầu phân phái. Trong số môn hạ của ngài Đạo Vân có Hồng Tuân; ngài Hồng Tuân truyền cho Hồng Uyên; ngài Hồng Uyên truyền cho Pháp Lệ. Ngài Pháp Lệ (569-635) trụ trì chùa Nhật-quang ở Tướng-châu (tỉnh Hà-nam), lập riêng một phái Luật học, gọi là Tướng Bộ tông. Ngài Pháp Lệ truyền cho Đạo Thành; ngài Đạo Thành truyền cho Mãn Ý và Hoài Tố. Ngài Mãn Ý trú tại Tây-tháp, tiếp tục hoằng truyền Tướng Bộ tông của ngài Pháp Lệ; ngài Hoài Tố (624- 697) trú tại Đông-tháp, lập thành một phái Luật học riêng, gọi là Đông Tháp tông. Trong khi đó, ngài Đạo Tuyên (596-667) trụ trì chùa Phong-đức ở núi Chung-nam, thành lập Luật tông, và được gọi là Nam Sơn tông (cũng gọi là Nam Sơn Luật tông). Cả ba tông này được gọi chung là “Ba tông Tứ Phần Luật” thời đại nhà Đường.
Ba tông phái Luật này từng tranh cãi nhau kịch liệt, do vì bất đồng ý kiến về vấn đề “giới thể ”. Tướng Bộ tông của ngài Pháp Lệ thì y cứ vào bộ luận Thành Thật, chủ trương giới thể là pháp phi sắc phi tâm, thuộc bất tương ưng hành pháp. Đông Tháp tông của ngài Hoài Tố thì y cứ vào hai bộ luận Đại Tì Bà Sa và Câu Xá, chủ trương giới thể thuộc về sắc pháp. Chủ trương của hai tông ấy đều thuộc về “tiếu thừa luật”. Riêng Nam Sơn tông, vì ngài Đạo Tuyên chịu ảnh hưởng sâu đậm của Pháp Tướng Duy Thức Học, nên ngài đã phán định rằng, Tứ Phần Luật, về hình thức thì mang sắc thái tiểu thừa giáo, nhưng về tinh thần thì thuộc về đại thừa, khi thọ giới phải nương vào ngôn ngữ, cho nên giới thể trở thành chủng tử của a-lại-da thức. Như vậy, hệ thống Nam Sơn Luật tông của ngài Đạo Tuyên thuộc về đại thừa giáo. Sau đó, hai tông Tướng Bộ và Đông Tháp lưu truyền không được bao lâu thì bị suy tàn; chỉ có tông Nam Sơn là hưng thịnh và lưu truyền sâu rộng và lâu dài; và ở Trung-quốc, khi nói tới Luật tông tức chỉ cho Nam Sơn Luật tông, cũng tức là Tứ Phần Luật tông.
Ngài Đạo Tuyên, trong bảng liệt kê chư vị tổ sư truyền thừa tông Luật, ngài là vị tổ thứ 9; nhưng đối với Nam Sơn Luật tông, thì ngài được tôn xưng là vị sơ tổ. Đệ tử của ngài đông đến vài trăm người, trong đó, luật sư Tú (có chỗ nói luật sư Châu) được thừa kế làm tổ thứ nhì; và các vị tổ truyền thừa nối tiếp nhau gồm có: Đạo Hằng, Tỉnh Cung, Huệ Chánh, Pháp Bảo, Nguyên Biểu, Thủ Ngôn, Nguyên Giải, Pháp Vinh, Xứ Hằng, Trạch Ngộ, Doãn Kham, Trạch Kì, Nguyên Chiếu, Trí Văn, Hoài Nhất, Pháp Chính, Pháp Cửu, Như Liên, Hành Cư, Chân Chiếu, v.v…
Từ cuối đời Đường sang đời Ngũ-đại, phần vì pháp nạn, phần vì binh hỏa liên miên, khiến cho tông Luật cũng như các tông phái khác, đều bị suy yếu. Đến đời Tống tông Luật được phục hưng, nhưng lại bị phân rẽ thành hai phái Hội Chánh và Tư Trì. Trong hai triều đại Nguyên và Minh, tông Luật vẫn được truyền thừa không gián đoạn, nhưng điển tịch mất mát nhiều, nên Luật học suy yếu. Cuối đời Minh có ngài luật sư Cổ Tâm (1541-1615), lên núi Ngũ-đài, cảm nhận được đức Bồ-tát Văn Thù truyền giới cho, tâm trí bỗng bừng sáng, bèn trở về chùa Linh-cốc ở Kim-lăng (Nam-kinh), khai đàn thuyết giảng giới luật, trùng hưng tông Luật. Pháp từ của ngài là luật sư Tịch Quang (1580-1640) thì mở đạo tràng ở núi Bảo-hoa (phía Đông Nam thành phố Kim-lăng), thuyết giới đến hơn trăm lần. Các vị đệ tử truyền thừa như Độc Thể (1580-1645) v.v… đều kế tiếp nhau xiển dương Luật học, làm cho thanh thế của đạo tràng núi Bảo-hoa, ở triều đại nhà Thanh, vang dội bốn phương. Vào cuối đời Thanh, trong cuộc loạn Thái- bình-thiên-quốc, đạo tràng núi Bảo-hoa bị phá hoại nặng nề; sau khi giặc loạn chấm dứt đạo tràng được trùng hưng, mỗi năm đều có mở giới đàn, nhưng vì bao nhiêu sách vở do Nam Sơn Luật tông truyền lại đều mất mát hết, nên Luật học thiếu chỗ nương dựa. Phải đợi đến lúc có người sang Nhật-bản thỉnh được điển tịch về, khắc in để quảng bá rộng rãi, bấy giờ Luật học lại được mọi người nghiên cứu, học tập, hành trì, và Luật tông mới trở lại cái phong thái sáng sủa như trước.
(03) Núi Chung-nam (Chung-nam sơn): tên cũ là Trung-nam sơn, gọi tắt là Nam-sơn, nằm ở phía Tây huyện Trường-an, tỉnh Thiểm-tây, là một ngọn thuộc dãy Tần-lĩnh sơn. Trên núi có nhiều thắng cảnh, nhiều cổ tích của tự viện, của các bậc danh tăng thạc đức, nên hàng năm số người lên núi du lãm rất đông. Cũng như Lô-sơn ở tỉnh Giang-tây, núi Chung-nam này cũng có nhiều liên hệ mật thiết đối với Phật giáo Trung-quốc. Từ cuối thế kỉ thứ 5, đã có rất nhiều danh tăng vân tập về núi này cư trú. Năm 5 73 (thời Bắc-Chu), ngài Pháp Tạng (546-629) lên núi này, một mình dựng thiền phòng ở ngọn Tử-cái. Ngài Tĩnh Ái (534-578), vì chống lại sự kì thị và âm mưu tiêu diệt Phật giáo của vua Chu Vũ đế, đã dẫn đồ chúng vào núi này ẩn cư, xây dựng đến 27 ngôi chùa. Khi vua Chu Vũ đế chính thức hạ lệnh tiêu diệt Phật giáo (năm 574), hàng trăm chư vị danh tăng đã lên núi ẩn cư lánh nạn. Đời nhà Tùy, ngài Trí Tạng lên núi lập chùa Phong-đức; ngài Đạo Phán lập chùa Long-trì; ngài Tịnh Nghiệp lập chùa Ngộ Chân; v.v… Đời nhà Đường, vị sơ tổ của tông Hoa Nghiêm là Pháp Thuận (tức Đỗ Thuận), vì ẩn cư ở núi này mà người đời xưng ngài là Chung Nam Pháp Thuận; ngài Pháp Lâm lập chùa Long-điền; ngài Trí Nghiễm hoằng dương tông Hoa Nghiêm tại chùa Chí-tướng, được người đời xưng ngài là Chí Tướng đại sư; ngài Thiện Đạo của tông Tịnh Độ ở tại chùa Ngộ Chân chuyên tu niệm Phật, được người đời xưng là Chung Nam đại sư; ngài Đạo Tuyên ở tại chùa Phong-đức hoằng dương Tứ Phần Luật và thành lập Nam Sơn Luật tông.
(04) Tông Mật: cũng gọi là tông Chân Ngôn, hay tông Du Già, là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc. Đây là một tông phái đại thừa, chủ trương “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong đời này bằng chính xác thân phàm phu này), nương vào pháp môn chân ngôn đà la ni, tu tập các diệu hạnh như 5 tướng (thông đạt bồ đề tâm, tu bồ đề tâm, thành kim cang tâm, chứng kim cang thân, và Phật thân viên mãn), ba mật (thân mật, khẩu mật, ý mật) v.v… Tông này lấy hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cang Đảnh làm tạng Kinh; lấy bộ kinh Tô Bà Hô làm tạng Luật; và lấy bộ luận Thích Ma Ha Diễn làm tạng Luận.
Mật tông thường xưng mình là Mật giáo (để đối lại với Hiến giáo), và gọi tất cả kinh điển thuộc Mật giáo là Mật kinh. Gọi là “Mật giáo” vì tông này cho rằng giáo điển của họ là tối tôn, tối mật; các giáo pháp thuộc hai bộ Kim-cang giới và Thai-tạng giới chính là cảnh giới nội chứng của Phật, vô cùng thâm diệu, bí áo, do chính Pháp thân của Phật là đức Đại Nhật Như Lai tuyên thuyết.
Mật giáo khởi nguồn từ kinh điển Vệ Đà ở thời cổ Ẳn-độ, sau đó được lưu hành trong mọi giới xã hội. Trong quá trình phát triển, Phật giáo dần dần hòa nhập với tín ngưỡng dân gian, cũng chịu ảnh hưởng của chú thuật, và đã dùng chú thuật để bảo hộ và tiêu trừ tai chướng cho tín đồ; Mật giáo của Phật giáo trong thời kì này được gọi là “Tạp Mật”. Mật giáo cũng lấy các vị thần trong kinh điển Vệ Đà, đem các cách thức của Thần giáo thay đổi cho mới lại để phù hợp với tổ chức Phật giáo; từ đó mà xuất hiện nhiều Minh-vương, Bồ-tát, chư Thiên, chân ngôn chú ngữ. Vì vậy mà trong kinh điển đại thừa hậu kì đã xuất hiện nhiều đà la ni, và nhiều kinh còn lấy đó làm phần chủ yếu. Trong tạng Kinh và tạng Luật Ba-lị có nhiều kinh điển gồm những bài kệ “hộ thân ”. Phật giáo đồ ở các xứ Tích-lan, v.v… đã biên tập các bài kệ này, làm thành kinh Minh Hộ (Paritta), tới nay vẫn còn truyền tụng. Lại như kinh Đại Hội trong bộ kinh Trường A Hàm, liệt kê toàn tên của hội chúng đang nghe pháp. Những loại kinh điển này đều được coi là khởi nguồn của đà la ni và mạn đà la trong Mật giáo.
Vào khoảng trước sau thế kỉ thứ 4 TL, kinh Khổng Tước Minh Vương xuất hiện, chuyên nói về chú thuật, đề xướng pháp môn “miệng tụng chân ngôn, nội tâm chuyên nhất”, cùng cách thức kiến lập đàn đất vuông tròn, cúng dường Chư Tôn (Phật, Bồ-tát, chư Thiên), nghiêm chỉnh tu trì nghi lễ, sẽ phát sinh công đức không thể nghĩ bàn. Vào nửa sau thế kỉ thứ 7, Phật giáo Ẳn-độ bước vào thời kì toàn thịnh, có kinh có giáo, có quĩ có nghi; lúc đó Mật giáo mới chính thức bắt đầu khai triển, lấy chân ngôn, đà la ni làm trung tâm, phối hợp với triết học Phật giáo đại thừa, đặt định cơ sở cho Mật giáo. Đó là Mật tông thuần chánh, được gọi là “Thuần Mật”, lấy hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cang Đảnh làm chủ yếu. Thế kỉ thứ 8, Mật giáo truyền sang Tây-tạng, trở thành Lạt-ma giáo, được công nhận là quốc giáo của nước Tây- tạng.
Riêng tại Trung-quốc, các kinh điển liên quan đến Mật giáo (Tạp Mật) đã được truyền dịch từ thời đại Tam-quốc (220-280), như cư sĩ Chi Khiêm ở nước Ngô đã dịch các kinh Bát Cát Tường Thần Chú, Vô Lượng Môn Vi Mật Trì, Hoa Tích Đà La Ni Thần Chú, v.v… Tiếp đó, vào thời đại Đông-Tấn (317- 420), ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La (Srimitra) đã dịch kinh Đại Quán Đảnh và kinh Khổng Tước Vương, được coi là hai bộ kinh chính thức khởi nguồn cho tiến trình hình thành tông Mật tại Trung-quốc. Sau đó, ngài Trúc Đàm Vô Lan (Dharmaraksa?) đã dịch các kinh Đà Lân Bát Chú, Ma Ni La Đản Thần Chú v.v…, làm cho kho điển tịch của tông Mật được thêm phong phú. Đời nhà Đường, người dịch kinh điển thuộc Mật giáo nhiều nhất là ngài Nghĩa Tịnh (635-713), với các kinh như Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Tâm Đà La Ni, Mạn Thù Thất Lị Bồ Tát Chú Tạng Trung Nhất Tự Chú Vương, Xưng ‘ Tán Như Lai Công Đức Thần Chú, v.v… Như vậy, trước khi ba đại sư Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí và Bất Không tới Trung- quốc, các kinh điển thuộc tông Mật (Tạp Mật) tại đây đã được truyền dịch rất nhiều; đó là chưa kể các chân ngôn, thần chú xuất hiện rải rác trong các bộ kinh Hiển giáo.
Trong khoảng nửa đầu thế kỉ thứ 8, hai ngài Thiện Vô Úy (Subhakara-simha, 637-735) và Kim Cang Trí (Vajrabodhi, 671?-741), thuộc phái Thuần Mật, trước sau đã đến Trường-an, dịch các bộ kinh căn bản của Thuần Mật, kiến lập đàn tràng quán đảnh, và tông Mật ở Trung-quốc đã được chính thức thành lập từ lúc đó. Sau đó lại có các vị cao tăng như Bất Không (Amoghavajra, 705-774), Nhất Hành, Huệ Quả, Biện Hoằng, v.v… nối tiếp nhau truyền trì Thuần Mật. Trải qua mấy năm pháp nạn Hội-xương (841- 846), rồi thời gian binh hỏa triền miên ở cuối đời Đường, các kinh điển của tông Mật đã bị hủy hoại gần hết, cho nên trong thời kì này, tông Mật hầu như chỉ còn là các sinh hoạt “pháp sự” (nghi lễ, cúng bái) mà thôi. Sang đời Tống (960-1279), tuy có các ngài Pháp Hiền, Thi Hộ, Pháp Thiên, v.v… phiên dịch kinh điển Mật giáo, nhưng tình trạng của tông Mật cũng không sáng sủa bao nhiêu. Vả lại, trạng thái của tông này ở đời Tống cũng khác với đời Đường. Trong khi tông Mật ở đời Đường có một hệ thống giáo học rõ rệt, thì ở đời Tống nó đã bị phân hóa, trở thành thông tục, lấy việc sùng bái Bổn Tôn và trì tụng chân ngôn đà la ni làm chủ yếu. Các chân ngôn như “Quán Âm Lục Tự Chú, Chuẩn Đề Thần Chú” v.v… rất được ưa chuộng thời bấy giờ.
Đời Nguyên (1260-1368), đế quốc Mông-cổ thống trị Trung-quốc. Người Mông-cổ rất sùng tín Lạt- ma giáo, cho nên đã nâng Lạt-ma giáo lên địa vị quốc giáo của Trung-quốc. Lúc đó nước Tây-tạng cũng đang là một bộ phận của đế quốc Mông-cổ, cho nên Mật tông của Trung-quốc cũng hòa nhập và trở thành Lạt-ma giáo. Vì được cả hoàng thất nhà Nguyên trọng thị và ưu đãi, cho nên Lạt-ma giáo dần dần bị hủ hóa. (Xin xem thêm các phụ chú số 6 và 32, bài 24 ở truớc.)
(05) Kim: tức Kim-cuơng giới, là một trong hai bộ căn bản của Mật giáo. Mật giáo cho rằng vạn pháp trong vũ trụ đều là những biểu hiện của đức Đại Nhật Như Lai. Những biểu hiện trong phương diện trí đức thì gọi là “Kim-cương giới”; và những biểu hiện trong phương diện lí tính thì gọi là “Thai-tạng giới”. Trí đức nội chứng của đức Như Lai, cái thể của nó vô cùng kiên cố, tất cả phiền não không thể hủy hoại được; giống như tính cứng chắc của kim cương, không bị bất cứ vật gì phá hủy được. Vì vậy, Kim- cương giới bao hàm các ý nghĩa: trí, quả (kết quả), thỉ giác (do diệt trừ phiền não mà giác ngộ), và tự chứng (tự tu tập mà chứng ngộ). Trái lại, lí tính của Như Lai vẫn tồn tại trong tất cả vạn pháp, được nuôi nấng bởi tâm đại bi, giống như thai nhi ở trong bụng mẹ, hoặc cũng như hạt sen có sẵn trong hoa sen, bởi vậy mà dùng hình thái “thai tạng ” để ví dụ. Cho nên, Thai-tạng giới bao hàm các ý nghĩa: lí, nhân (nguyên nhân), bản giác (tính giác vốn có từ vô thỉ), và hóa tha (hóa độ chúng sinh). Nếu y vào kinh Kim Cuơng Đảnh, đem Kim-cương giới biểu thị thành đồ hình thì gọi là “Kim-cuơng giới mạn-đà-la”; nếu y vào kinh Đại Nhật, đem Thai-tạng giới biểu thị thành đồ hình thì gọi là “Thai-tạng giới mạn-đà-la” Kim- cương giới và Thai-tạng giới được gọi chung là “Hai bộ Chân-ngôn ”, hoặc “Hai bộ Kim-Thai ”, là hai mặt căn bản của Mật giáo. Hai bộ ấy, đứng về mặt đối lập nhau thì gọi là “Hai bộ tương đối”; đứng về mặt nhất thể thì gọi là “Hai bộ không hai”.
(06) Thai: tức Thai-tạng giới, gọi đủ là “Đại bi thai tạng sinh”, là một trong hai bộ căn bản của Mật giáo. Từ “thai tạng” hàm ý chứa đựng, nhiếp giữ, bao che, bảo hộ. Hành giả bắt đầu phát tâm, như chủng tử của thức, được mẫu thai chứa giữ, bảo hộ, cho đến khi các căn đầy đủ thì sinh ra đời; rồi trưởng thành, học các thứ kĩ năng, sau đó sẽ xây dựng sự nghiệp; cũng như y vào lí tính vốn sẵn có nơi chúng sinh mà học muôn hạnh đại bi, hiển bày tịnh tâm, phát khởi phương tiện, tự lợi lợi tha, rốt ráo viên mãn, gọi đó là “đại bi thai tạng sinh”. Bởi vậy, “thai tạng” là chỉ cho lí tính vốn có nơi chúng sinh, và pháp môn bình đắng của lí tính gọi là “Thai-tạng giới”; đối lại, pháp môn sai biệt của trí tuệ thì gọi là “Kim-cương giới”.
(07) Ân: Chữ “ấn” nghĩa là con dấu, chứng thực, tiêu chuẩn, kí hiệu; ở đây nó được đặc biệt dùng trong Mật giáo, nói đủ là khế ấn, mật ấn, ấn tướng, hay thủ ấn, là các cách thế, hình dạng làm thành do hai bàn tay và mười ngón tay, nhằm biểu hiện công đức nội chứng cùng bổn thệ (xu hướng và khả năng hóa hiện độ sinh) của Chư Tôn trong hải hội mạn đà la Mật giáo. Hai bàn tay và 10 ngón tay tạo ra các hình dạng này, thuật ngữ Mật giáo gọi là “kết ấn”. Theo Mật giáo, người đang tu hành, dù chưa thành Phật, nhưng cùng với bản thệ của Chư Tôn vẫn tương đồng, đều vì thành tựu cái nghĩa lí “tam mật tương ưng”. Tam mật tương ưng tức là tâm ý quán tưởng mạn đà la, miệng tụng thần chú và tay bắt ấn, tạo thành một thể đồng nhất để thể nhập tam mật của Phật. Vậy “tam mật” tức ý mật, khẩu mật và thân mật; trong đó, tay bắt ấn thuộc về thân mật. Trong Mật giáo, theo nghĩa rộng, chữ “ấn” còn chỉ cho bốn loại mạn đà la: – Đại mạn đà la: hình tượng các đức Phật và Bồ-tát, biểu tượng cho tự thân của Phật và mối quan hệ giữa tự thân Phật với toàn thể vũ trụ; – Tam muội da mạn đà la: vòng tròn hội chúng với những pháp khí trong tay tùy theo bản nguyện của mỗi vị; – Pháp mạn đà la: pháp môn do Phật hay Bồ-tát thuyết; – Yết ma mạn đà la: các hình ảnh biểu hiện các động tác, các hành trạng độ sinh của Phật và Bồ-tát.
(08) Tông Tam Luận: còn được gọi bằng nhiều tên khác như Vô Tướng, Không, Bát Nhã, Trung Quán, Gia Tường, v.v…, là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc. Tông này y cứ vào giáo nghĩa của ba bộ luận là Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận để làm cơ sở lập tông, xiển dương nghĩa lí không, vô tướng và bát bất trung đạo. Tông Tam Luận vốn có nguồn gốc từ Ẳn-độ, bởi vậy, trong bộ Tam Luận Tổ Sư Truyện Tập đã liệt kê 6 vị tổ ban đầu của tông này ở Ẳn-độ là: Đức Thế Tôn, Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Mã Minh, Bồ-tát Long Thọ, Bồ-tát Ca Na Đề Bà, và Bồ-tát La Hầu La Bạt Đà La. Vào cuối thế kỉ thứ 2 và đầu thế kỉ thứ 3 TL, ngài Long Thọ ở Nam Ẳn-độ đã trước tác hai bộ luận quan trọng là Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận, khai mở nền móng cho tông này. Môn hạ của ngài Long Thọ là ngài Ca Na Đề Bà đã tạo bộ Bách Luận, hợp với hai bộ Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận ở trên, làm thành ba bộ luận căn bản của tông Tam Luận. Rồi các ngài La Hầu La Bạt Đà La, Thanh Mục, Bà Tẩu, Phật Hộ, Vô Trước, An Tuệ, Thanh Biện, Hộ Pháp, Nguyệt Xứng, v.v… có đến hơn 70 vị luận sư trước sau viết các tác phẩm liên quan đến ba bộ luận trên, làm cho tông Tam Luận rất thịnh hành ở Ẳn-độ vào khoảng thời gian mấy thế kỉ đó.
Đầu thế kỉ thứ 5, ngài Cưu Ma La Thập đến Trường-an (kinh đô của nhà Diêu-Tần), đã dịch nhiều tác phẩm của hai ngài Long Thọ và Đề Bà (như Đại Phẩm Bát Nhã, Đại Trí Độ Luận, Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, v.v…), đặt định cơ sở cho sự hình thành tông Tam Luận ở Trung-quốc. Môn hạ của ngài Cưu Ma La Thập có đến 3.000 người, nhưng được kể vào hàng cao túc thì có 10 vị, đó là các ngài Tăng Triệu, Đạo Sinh, Tăng Duệ, Đàm Anh, Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, Tăng Lược, Đạo Hằng, Đạo Tiêu, và Đạo Dung. Trong số này, các ngài Tuệ Quán, Đạo Sinh và Tăng Duệ hoằng pháp ở vùng Giang-nam; các ngài Tăng Triệu, Đàm Anh và Đạo Dung hoằng pháp tại vùng Quan-trung; đã tạo thành hai học phái Nam và Bắc của tông Tam Luận. Trải qua 80 năm (kể từ năm 401, ngài La Thập đến Trường-an), vì thiếu nhân tài thừa kế, nên phái Bắc bị thất truyền; còn phái Nam thì bị phong trào học Thành Thật Luận áp đảo, cũng không phát triển được.
Trong 10 vị cao đồ của ngài Cưu Ma La Thập, có 4 vị xuất sắc hơn cả, được người đời xưng là “tứ thánh”, hay “tứ kiệt”, đó là các ngài Tăng Triệu, Đạo Sinh, Tăng Duệ, và Đạo Dung. Lại trong bốn vị này, ngài Đạo Sinh (355-434) đã được chọn kế thừa tổ nghiệp của ngài Cưu Ma La Thập (viên tịch vào năm 413). Sau đó, ngài Đạo Sinh truyền cho Đàm Tế (411-475); ngài Đàm Tế truyền cho Đạo Lãng (Tăng Lãng, ?-?); ngài Đạo Lãng truyền cho Tăng Thuyên (?-?); ngài Tăng Thuyên truyền cho Pháp Lãng (507-581); ngài Pháp Lãng truyền cho Cát Tạng (549-623); cổ lai thường gọi 7 vị cao tăng trên (La Thập, Đạo Sinh, Đàm Tế, Đạo Lãng, Tăng Thuyên, Pháp Lãng, và Cát Tạng) là “thất đại tương thừa” của tông Tam Luận.
Ngài Cát Tạng quê ở Kim-lăng, theo học với ngài Pháp Lãng từ lúc mới lên 7 tuổi. Trong tuổi niên thiếu, ngài đã thấu suốt huyền nghĩa kinh điển của cả tiểu lẫn đại thừa. Năm 33 tuổi (năm 581) ngài trú trì chùa Gia-tường (huyện Cối-kê, tỉnh Triết-giang). Tại đây ngài vừa trước tác, vừa giảng thuyết, cực lực xiển dương tông Tam Luận. Tác phẩm của ngài có hơn mười bộ, đã tập đại thành giáo nghĩa của tông Tam Luận, khiến cho trong khoảng thời gian 43 năm này (581-623, tức từ khi ngài kế thế tổ Pháp Lãng cho đến khi ngài viên tịch) đã trở thành là thời kì hoàng kim của tông Tam Luận. Thời đại ngài Cát Tạng cũng đồng thời là một cái mốc phân chia tông Tam Luận thành hai giai đoạn: Từ ngài Cưu Ma La Thập cho đến ngài Cát Tạng, gọi là “Cựu Tam Luận tông”; từ ngài Cát Tạng về sau gọi là “Tân Tam Luận tông”. Nhưng từ sau ngài Cát Tạng, những vị thừa kế không có ai là người xuất sắc, đã không chịu nổi với sức bành trướng của các tông phái khác (như Thiền, Duy Thức v.v…), cho nên từ trung diệp nhà Đường trở đi, tông Tam Luận đã dần dần mai một.
(09) Cát Tạng (549-623): là vị cao tăng sống vào thời đại nhà Tùy (581-619), tổ đời thứ 7 của tông Tam Luận Trung-quốc. Ngài là người Kim-lăng (Nam-kinh), tỉnh Giang-tô, tục tánh là An, tên là Thế. Thân phụ ngài vốn là người nước An-tức, thuộc tộc Hồ, đã dời sang Trung-quốc sinh sống, cư trú tại Kim- lăng; vì vậy người đương thời thường gọi ngài là An Cát Tạng, hoặc Hồ Cát Tạng. Từ lúc ba, bốn tuổi, ngài đã theo cha đến yết kiến ngài Chân Đế (499-569); tên Cát Tạng của ngài là do ngài Chân Đế đặt cho. Sau đó thân phụ ngài xuất gia (hiệu là Đạo Lượng), và ngài đã thường theo cha đến chùa Hưng- hoàng nghe đại sư Pháp Lãng giảng thuyết về tông Tam Luận. Đến 7 tuổi (có thuyết nói là 10 tuổi) ngài theo đại sư Pháp Lãng xuất gia, tinh chuyên nghiên tập giáo nghĩa ba bộ luận căn bản của tông Tam Luận là Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận. Năm 21 tuổi ngài thọ giới cụ túc, nhưng từ 19 tuổi đã bắt đầu thuyết giảng kinh luận. Năm 581 (năm đầu của triều đại nhà Tùy) ngài Pháp Lãng (tổ thứ 6 của tông Tam Luận) viên tịch. Sau khi nhận lãnh trách nhiệm thừa kế tổ nghiệp, ngài bèn đến trú trì chùa Gia-tường ở huyện Cối-kê, tỉnh Triết-giang. Tại đây ngài chuyên việc trước tác và thuyết giảng, người tới hỏi đạo đông đến cả ngàn. Các tác phẩm của ngài nhằm xiên dương tông Tam Luận, hầu hết được viết tại chùa này, cho nên hậu thế đã xưng ngài là “Gia Tường đại sư”.
Về phương diện giáo học, ngoài sự thấu suốt giáo nghĩa của tông Tam Luận, ngài còn tinh thông cả các bộ kinh đại thừa quan trọng khác như Pháp Hoa, Niết Bàn v.v… Năm 606, vua Tùy Dạng đế (605- 616) hạ chiếu xây dựng bốn ngôi đạo tràng, và ngài được mời đến chủ trì đạo tràng Tuệ-nhật ở Dương- châu (tỉnh Giang-tô). Một thời gian sau, ngài lại dời đến đạo tràng Nhất-nghiêm ở Trường-an để hóa đạo vùng đất Trung-nguyên. Bất cứ nơi nào, ngài cũng chuyên tâm hoằng dương tông Tam Luận, cực lực phát huy cái diệu lí của “bát bất trung đạo”, làm cho tông này ngày càng hưng long, dần đến chỗ cực thịnh; bởi vậy, người đương thời xưng ngài là vị tổ trùng hưng tông Tam Luận. Từ năm 605 cho đến năm cuối đời Tùy, ngài đã chép tay 2.000 bộ kinh Pháp Hoa, tạo 25 tôn tượng, lúc nào cũng kiền thành sám hối. Ngài cũng từng ngồi đối diện với tượng đức Bồ-tát Phổ Hiền để quán chiếu về lí thật tướng. Năm 618 (năm cuối triều đại nhà Tùy, mà cũng là năm đầu triều đại nhà Đường), vừa lên ngôi, vua Cao-tổ (618- 626) nhà Đường đã ban chiếu tuyển chọn 10 vị cao tăng đại đức để thống lãnh tăng chúng toàn quốc; và ngài Cát Tạng là một trong số 10 vị này. Đến năm 623, khi biết sắp tới giờ lâm chung, ngài bèn tắm gội, thắp hương niệm Phật, rồi viết bài “Tử Bất Bố Luận” (luận không sợ chết), xong thì viên tịch, thế thọ 75 tuổi, an táng tại chùa Chí-tướng trên núi Chung-nam.
Môn đồ của ngài rất đông, trong đó có các ngài Tuệ Quán, Tuệ Lãng và Trí Khải là xuất sắc nhất. Trước tác của ngài rất nhiều, gồm có: Trung Quán Luận Sớ, Bách Luận Sớ, Thập Nhị Môn Luận Sớ, Tam Luận Huyền Nghĩa, Đại Thừa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Huyền Luận, v.v… và còn nhiều sách chú thích các kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, Thắng Man, v.v… Sức giảng kinh của ngài cũng có thể nói là “vô địch”. Theo các sử liệu ghi chép, sinh thời ngài đã giảng “ba bộ luận” đến hơn trăm lần; giảng kinh Pháp Hoa hơn 300 lần; giảng các kinh Đại Phẩm, Hoa Nghiêm, Duy Ma và luận Đại Trí Độ, v.v… đến vài chục lần.
(10) Tông Thiền: cũng gọi là tông Phật Tâm, hay tông Đạt Ma, là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc. Thiền, nói đủ là “thiền na” (dhyana), người Hán dịch nghĩa là “tĩnh lự”. “Tĩnh” là tâm ý đạt được trạng thái tĩnh lặng; và “lự” là vận dụng trí tuệ để tư duy quán chiếu về một đối tượng. Tu thiền cũng đồng thời là tu định, cho nên trong Phật giáo đã có thuật ngữ “thiền định ”. Thiền định là một trong ba pháp học trọng yếu và căn bản của Phật giáo (tức giới học, định học và tuệ học), nhưng nguyên thỉ, đó là truyền thống tư duy từng được thực hành trong các hệ phái triết học và tôn giáo từ thời cổ Ẳn-độ. Tư tưởng về “mục đích tọa thiền để sinh lên các cõi trời” đã từng thịnh hành từ lâu trước khi đức Phật Thích Ca giáng thế. Khi đức Phật ra đời, Ngài đã chủ trương mục đích của thiền là xa lìa cả hai cực đoan khổ và vui, để đạt được trung đạo, tức cảnh giới niết bàn. Và chính Ngài đã triệt để tu tập thiền định mà đạt được đạo quả bồ đề vô thượng; rồi hàng vạn thánh chúng đệ tử của Ngài, cũng vì triệt để tu tập thiền định mà được giải thoát khỏi ba cõi, chứng nhập niết bàn. Ý nghĩa “hành thiền” nguyên thỉ là như vậy, nhưng trên tiến trình phát triển, dần dần kinh điển về thiền càng xuất hiện nhiều, và tùy theo mục đích tu tập của hành giả mà nhiều chi tiết về đối tượng của thiền định đã được thêm vào, từ đó mà phân chia có loại thiền tiểu thừa, có loại thiền đại thừa; có loại thiền hữu lậu, có loại thiền vô lậu; có loại thiền gọi là “NhưLai thiền”, có loại thiền gọi là “Tổ Sư thiền”; v.v…
Như các sử liệu của Phật giáo Trung-quốc đều công nhận, người đầu tiên đã truyền bá tư tưởng thiền ở Trung-quốc là ngài An Thế Cao, (người nước An-tức, đến Lạc-dương năm 147 TL, thời Hậu-Hán), với các dịch phẩm đầu tiên có liên quan tới pháp môn tu thiền của ngài như: Đại An Ban Thủ Ý Kinh, Thiền Hạnh Pháp Tưởng, Thiền Hạnh Tam Thập Thất Phẩm Kinh. Từ đó cho đến cuối thời đại Đông-Tấn, các kinh điển có nội dung thiền tập vẫn tiếp tục được dịch, như: Thiền Yếu Ha Dục Kinh (thời Hậu-Hán, không rõ tên dịch giả), Pháp Quán Kinh và Tu Hành Đạo Địa Kinh (thời Tây-Tấn, Trúc Pháp Hộ dịch), Đạt Ma Đa La Thiền Kinh (thời Đông-Tấn, Bạt Đà Bạt Đà La dịch), Nội Thân Quán Chương Cú Kinh (thời Đông-Tấn, không rõ tên dịch giả), Thiền Bí Yếu Pháp Kinh, Tọa Thiền Kinh Tam Muội, Thiền Pháp Yếu Giải, và Tư Duy Lược Yếu Pháp (đời Diêu-Tần, Cưu Ma La Thập dịch), Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Pháp (đời Hậu-Lương, Thư-cừ Kinh Thanh dịch). Các kinh điển trên, theo nội dung thì các kinh Đại An Ban Thủ Ý, Thiền Hạnh Pháp Tưởng, Thiền Hạnh Tam Thập Thất Phẩm, Nội Thân Quán Chương Cú, Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Pháp, là thuộc về thiền tiểu thừa; các kinh còn lại là thuộc về thiền đại thừa. Nhưng tiểu hay đại thừa là do người sau phân biệt, chứ vào thời đại đó, hễ ai chuyên ý tọa thiền thì gọi là tu thiền quán, hay thiền tập. Và “thiền tập” lúc đó cũng được áp dụng trong cả các tông phái như Thiên Thai, Tam Luận v.v…; các tông phái này đều lấy pháp môn thiền tập để tư duy quán chiếu, nhờ đó mà thông đạt các giáo nghĩa của tông phái mình. Điều đó chứng tỏ, từ đầu thế kỉ thứ 6 trở về trước (tức trước triều đại vua Lương Vũ đế), pháp môn tu thiền chưa được chính thức lập thành một tông phái riêng biệt ở Trung-quốc.
Năm 520, ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Trung-quốc, truyền bá một pháp thiền đặc biệt, y cứ vào tư tưởng kinh Lăng Già mà chủ trương “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (không dựa vào văn tự, trao truyền ở ngoài giáo thuyết); ý nói, tông chỉ của pháp môn này là không y cứ vào văn tự, kinh điển, mà chỉ chuyên tọa thiền và dùng tiếng hét hay gậy đánh, làm cho tâm hành giả bừng sáng, chứng ngộ bản lai diện mục của mình (tức “kiến tánh thành Phật”). Thuật ngữ “dĩ tâm truyền tâm” được đặc biệt dùng để chỉ cho phương pháp này. Từ đây mà tông Thiền được chính thức thành lập ở Trung-quốc như một tông phái độc lập; hễ nói đến “thiền”, hay “tu thiền”, là ai cũng nghĩ ngay đến tông Thiền này.
Thiền tông được thành lập, và ngài Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma, ?-535) được tôn xưng là vị sơ tổ của tông Thiền Trung-quốc. Nhưng tông này không phải bắt đầu từ ngài Bồ Đề Đạt Ma, mà theo các vị tổ của tông Thiền, thì tông này đã có một hệ thống truyền thừa khởi đầu từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Theo truyền thuyết, một ngày nọ ở tại núi Linh-thứu, trước khi bắt đầu buổi thuyết pháp, đức Thế Tôn đã cầm một cành hoa đưa lên trước đại chúng, không nói lời nào. Cả pháp hội không ai hiểu gì cả, chỉ có tôn giả Đại Ca Diếp nhìn đức Thế Tôn mỉm cười. Đức Thế Tôn liền dạy: “Này Đại Ca Diếp! Như Lai có chánh pháp nhãn tạng, nay đem giao phó cho ông.” Tôn giả Đại Ca Diếp hoan hỉ nhận lãnh, nhưng cả hội chúng cũng không ai biết đức Thế Tôn và tôn giả Đại Ca Diếp đã trao và nhận cái gì, như thế nào. Về sau, một hôm tôn giả A Nan hỏi tôn giả Đại Ca Diếp là hôm đó đức Thế Tôn đã truyền dạy điều gì, thì tôn giả Đại Ca Diếp bảo: “Hãy đi hạ cột cờ xuống! ” Ngài A Nan liền ngộ ngay. Cứ thế mà tâm ấn được truyền thừa: Ngài Đại Ca Diếp là vị tổ thứ nhất của Thiền tông, truyền cho ngài A Nan là tổ thứ nhì, ngài A Nan truyền cho ngài Thương Na Hòa Tu, rồi đến Ưu Ba Cúc Đa, Đề Đa Ca, Di Già Ca, Bà Tu Mật, Phật Đà Nan Đề, Phục Đà Mật Đa, Hiếp tôn giả, Phú Na Dạ Xa, Mã Minh đại sĩ, Ca Tì Ma La, Long Thọ đại sĩ, Ca Na Đề Bà, La Hầu La Đa, Tăng Già Nan Đề, Già Da Xá Đa, Cưu Ma La Đa, Xà Dạ Đa, Bà Tu Bàn Đầu, Ma Nã La, Hạc Lặc Na, Sư Tử Bồ Đề, Bà Xá Tư Đa, Bất Như Mật Đa, Bát Nhã Đa La, và Bồ Đề Đạt Ma, cả thảy là 28 vị tổ đều là người Ẳn-độ, mà tông Thiền Trung-quốc gọi là “Tây Thiên nhị thập bát tổ”, hoặc “Tây Thiên tứ thất”.
Ngài Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ thứ 28 của hệ thống truyền thừa thiền pháp ở Ẳn-độ, và khi ngài sang Trung-quốc truyền thiền pháp thì trở thành sơ tổ của tông Thiền Trung-quốc. Ngài nguyên là vị hoàng tử thứ ba của vua nước Hương-chí ở miền Nam Ẳn-độ, nhưng đã từ bỏ đời sống vương giả, theo ngài Bát Nhã Đa La (Prajnatara, ?-457) xuất gia học đạo; sau 40 năm mới được truyền y bát. Vâng lời thầy, năm 520 (có thuyết nói là năm 479) ngài theo đường hàng hải đến Quảng-châu (Trung-quốc). Vua Lương Vũ đế (502-549) mời ngài đến Kiến-nghiệp (Nam-kinh) để triều kiến. Vua hỏi: “Từ khi tức vị đến nay, trẫm tạo chùa, chép kinh và độ tăng rất nhiều, công đức ấy lớn như thế nào? ” Ngài đáp: “Không có công đức gì cả! ” Vua hỏi tiếp: “Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?” Ngài đáp: “Rỗng tuếch, không có thánh gì cả! ” Vua lại hỏi: “Vậy ai đang diện kiến trẫm đây?” Ngài đáp: “Không biết!” Cả ba câu trả lời của ngài, nhà vua đều không liễu ngộ, bèn cho rằng mình đã không gặp đúng người mong đợi, liền không tiếp ngài nữa. Biết là duyên hóa độ chưa tới, ngài liền bỏ đi, qua sông Dương-tử sang nước Bắc-Ngụy, lên núi Tung, vào một hang đá ở sau chùa Thiếu-lâm, xoay mặt vào vách tọa thiền, ròng rã đến 9 năm trời. Người đương thời không hiểu ý, bèn gọi ngài là “Bích Quán Bà la môn ”.
Bấy giờ có ngài Thần Quang (487-593), người Lạc-dương, nghe tiếng đồn cho nên ngưỡng mộ đạo phong của ngài, bèn tìm lên núi Tung xin cầu học. Tuệ Khả quì suốt đêm ở trước cửa hang đá, đến sáng mà vẫn không được phép vào, cũng không được ngài trả lời. Thần Quang bèn dùng dao tự chặt đứt cánh tay trái của mình để tỏ lòng chí thành cầu pháp. Ngài bèn thâu nhận Thần Quang làm đệ tử, truyền cho pháp an tâm, đặt cho tên mới là Tuệ Khả. Từ đó, ngoài Tuệ Khả, ngài còn thâu nhận một số đệ tử khác như Đạo Dục, Tăng Phó, Đàm Lâm v.v… Gần 10 năm sau, ngài muốn về lại Thiên-trúc, bèn truyền y bát và phó chúc tổ nghiệp cho ngài Tuệ Khả; nhưng chưa đi thì ngài thị tịch, được an táng ở chùa Thượng- lâm trên núi Hùng-nhĩ (tỉnh Hà-nam). Nhưng 3 năm sau, vị sứ thần của Bắc Ngụy là Tống Vân, khi đi qua núi Thông-lãnh, lại trông thấy ngài quảy một chiếc hài đi về phương Tây.
Ngài Tuệ Khả được ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền tâm ấn, trở thành vị tổ thứ hai của tông Thiền Trung- quốc. Vào năm 552 (triều đại Bắc Tề), ngài lại truyền pháp cho đệ tử là Tăng Xán (?-606), là tổ thứ ba; ngài Tăng Xán truyền cho Đạo Tín (580-651) là tổ thứ tư; ngài Đạo Tín truyền cho Hoằng Nhẫn (602- 675) là tổ thứ năm; ngài Hoằng Nhẫn truyền cho Tuệ Năng (638-713) là tổ thứ sáu.
Thiền tông Trung-quốc, đến ngài Đạo Tín thì bắt đầu hưng thịnh. Ngài Đạo Tín có hai vị đệ tử kiệt xuất là Hoằng Nhẫn và Pháp Dung (594-657). Ngài Pháp Dung ban đầu học tông Tam Luận, lại thông Nho học. Năm 644 (đời Đường) ngài lên núi Ngưu-đầu (tỉnh Giang-tô), dựng một thiền thất ở cạnh chùa U-thê, chuyên tu thiền định, đồ chúng theo học hơn trăm người. Sau gặp tổ Đạo Tín, được truyền tâm ấn, tự lập riêng một phái thiền, gọi là Ngưu Đầu tông (đối lại với “Đông Sơn tông” của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn); đó là lần phân phái đầu tiên của tông Thiền Trung-quốc. Kế thừa Ngưu Đầu thiền của ngài Pháp Dung có các ngài Trí Nghiêm, Tuệ Phương, Pháp Trì, Trí Uy, Tuệ Trung; gọi là “Ngưu Đầu lục tổ”. Thiền phái này cực thịnh ở đời Đường, nhưng sang đến đời Tống thì suy dần, rồi mai một.
Ngài Hoằng Nhẫn, sau khi được tổ Đạo Tín (lúc đó đang trú tại chùa Chánh-giác ở núi Tây-sơn, phía Tây huyện Hoàng-mai, tỉnh Hồ-bắc) trao truyền y bát và phó chúc tổ nghiệp, trở thành tổ thứ năm của tông Thiền Trung-quốc, đã sang trú chùa Chân-huệ ở núi Ngũ-tổ (tức núi Đông-sơn, cũng gọi núi Hoàng- mai, ở phía Đông huyện Hoàng-mai, tỉnh Hồ-bắc, cách núi Tây-sơn 17 cây-số), chuyên tu tập thiền định, phát dương thiền phong, hình thành “Đông Sơn pháp môn ” (cũng gọi là Đông Sơn tông), lấy giáo nghĩa kinh Kim Cang Bát Nhã làm yếu chỉ – khác với các đời trước, từ tổ Bồ Đề Đạt Ma đến tổ Đạo Tín thì lấy kinh Lăng Già làm chủ yếu. Môn hạ của tổ Hoằng Nhẫn rất đông, nhưng có hai vị được liệt vào hàng kiệt xuất là Thần Tú và Tuệ Năng. Ngài Thần Tú (605-706) là đệ nhất thượng thủ trong số đệ tử của tổ Hoằng Nhẫn, nhưng ngài Tuệ Năng lại được tổ trao truyền y bát và phó chúc tổ nghiệp. Sau khi được truyền y bát, ngài Tuệ Năng liền đi về phương Nam hành đạo; còn ngài Thần Tú vẫn ở với tổ Hoằng Nhẫn. Sau khi tổ viên tịch (năm 675, đời vua Đường Cao-tông), ngài Thần Tú đã dời về núi Ngọc-tuyền (huyện Đương-dương, tỉnh Hồ-bắc) để truyền pháp. Đạo phong của ngài cao vợi, đồ chúng theo học có đến 3.000 người, nổi tiếng nhất là các ngài Phổ Tịch, Nghĩa Phúc, Tuệ Phúc v.v… Pháp hệ của ngài thịnh hành ở phương Bắc, lấy hai kinh thành Lạc-dương và Trường-an làm trung tâm, chủ trương pháp tu “tiệm tu tiệm ngộ”, người đời gọi đó là phái “Bắc thiền”, “Bắc tông”, hay “Bắc Tú”.
Trong khi đó, ngài Tuệ Năng, sau khi được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn phú pháp, trở thành tổ thứ sáu, bèn trở về quê ở miền Lĩnh-nam, trú tại chùa Bảo-lâm tại Tào-khê (tỉnh Quảng-đông), chủ trương pháp tu “đốn ngộ”, cực lực hoằng dương pháp môn “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, người đời gọi đó là phái “Nam thiền”, “Nam tông”, hay “Nam Năng”. Hai ngài Thần Tú và Tuệ Năng được coi là đại diện cho Thiền tông Trung-quốc vào thời đại nhà Đường; nhưng vì chủ trương và đường hướng tu tập, cũng như địa bàn hành hóa đối nghịch nhau, chia thành hai phái Bắc và Nam rõ rệt, nên người đương thời đã gọi hiện trạng đó là “Nam tông Bắc tông”, “Nam Năng Bắc Tú ”, hoặc “Nam đốn Bắc tiệm”. Nhưng hệ phái của ngài Thần Tú ở phương Bắc chỉ truyền thừa được khoảng bốn, năm đời thì bị dứt tuyệt; trong khi đó, pháp hệ của ngài Tuệ Năng ở phương Nam, lúc đầu hưng thịnh ở cứ địa trung tâm là các tỉnh Hồ-nam, Giang-tây và Quảng-đông, dần dần phát triển lên phương Bắc, thay thế cho pháp hệ của ngài Thần Tú đã mai một.
Ngài Tuệ Năng là vị tổ thứ sáu, và cũng là vị tổ cuối cùng của giai đoạn đầu của tông Thiền Trung- quốc; sau ngài không có tổ thứ bảy, và lệ “truyềny bát để thừa kế tổ nghiệp” cũng được ngài hủy bỏ. Khi sáng lập phái thiền Nam tông, ngài Tuệ Năng được tôn xưng là sơ tổ của tông này. Môn đệ tuấn tú của ngài rất nhiều, mà các ngài Hành Tư, Hoài Nhượng, Thần Hội, Huyền Giác, Tuệ Trung, và Pháp Hải, là những nhân vật trọng yếu. Ngài Pháp Hải (?-?) thường theo thầy để ghi chép các lời giảng của thầy, rồi viết lại thành sách để lưu truyền (như kinh Pháp Bảo Đàn chẳng hạn); ngài Huyền Giác có soạn bộ Vĩnh Gia Tập và bài “Chứng Đạo Ca”; ngài Hành Tư (?-740), sau khi đắc pháp, đã lui về tĩnh tu ở núi Thanh- nguyên (tỉnh Giang-tây); ngài Hoài Nhượng (677-744) thì về ở chùa Bát-nhã trên núi Nam-nhạc (tỉnh Hồ-bắc); ngài Thần Hội (?-760) thì lên phương Bắc, trụ trì chùa Hà-trạch ở thành Lạc-dương; ngài Tuệ Trung (?-775) thì về tu ở núi Bạch-nhai (huyện Nam-dương, tỉnh Hà-nam). Trong các ngài trên thì hai ngài Hoài Nhượng và Hành Tư có thanh thế lớn lao và hệ thống truyền thừa lâu dài, rộng rãi hơn cả, đã trở thành hai chi phái lớn của Nam tông.
Ngài Hoài Nhượng, sau khi đắc pháp với tổ Tuệ Năng, đã về núi Nam-nhạc (huyện Hành-sơn, tỉnh Hồ-nam), trụ trì chùa Bát-nhã, tiếp hóa đồ chúng đến 30 năm, người đời thường gọi ngài là Nam Nhạc Hoài Nhượng; và gọi hệ thống truyền thừa của ngài là chi phái “Nam Nhạc”. Đệ tử đắc pháp của ngài có 9 vị, trong đó, Mã Tổ Đạo Nhất là thượng thủ. Ngài Mã Tổ (709-788) truyền bá thiền pháp ở núi Cung-sơn, tỉnh Giang-tây, môn hạ hơn trăm người, mà kiệt tuấn hơn cả là ngài Hoài Hải (720-814). Ngài Hoài Hải sau khi đắc pháp, năm 784 (đời vua Đường Đức-tông) đã vào núi Bách-trượng (ở huyện Phụng-tân, tỉnh Giang-tây), lập thiền viện, chế định “thanh qui” để thiết lập pháp chế riêng cho thiền viện, làm mẫu mực cho tăng chúng tu trì. Đó là lần đầu tiên Thiền tông có tự viện độc lập (từ trước vẫn sinh hoạt chung trong các luật viện). Đệ tử của ngài Bách Trượng Hoài Hải có hai vị xuất sắc nhất, đó là hai ngài Hi Vận (?-850) ở núi Hoàng-bá (tỉnh Giang-tây) và ngài Linh Hựu (771-853) ở núi Qui-sơn (tỉnh Hồ-nam). Môn hạ của ngài Hoàng Bá Hi Vận có ngài Nghĩa Huyền là nổi tiếng nhất. Ngài Nghĩa Huyền (?-867), sau khi đắc pháp với ngài Hi Vận, năm 857 đã về Trấn-châu (tỉnh Hà-bắc), trụ trì viện Lâm-tế, tiếp hóa đồ chúng, lập thành một thiền phái riêng, gọi là tông Lâm Tế. Cũng trong thời gian đó, đệ tử đắc pháp của ngài Qui Sơn Linh Hựu là ngài Tuệ Tịch (840-916) ở núi Ngưỡng-sơn (tỉnh Giang- tây), cũng lập riêng một thiền phái, gọi là tông Qui Ngưỡng. Hai tông này đều truyền bá thiền pháp ở phương Bắc.
Như vậy, trong hệ thống truyền thừa của ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng, từ sau ngài Bách Trượng Hoài Hải thì phân làm hai phái là Lâm Tế và Qui Ngưỡng. Song song với chi phái Nam Nhạc là chi phái “Thanh Nguyên”. Núi Thanh-nguyên ở tỉnh Giang-tây là căn cứ địa hoằng hóa của ngài Hành Tư. Môn hạ của ngài Hành Tư rất đông, trong đó, ngài Thạch Đầu Hi Thiên (700-790) là xuất sắc nhất. Thạch Đầu Hi Thiên truyền cho Dược Sơn Duy Nghiễm (745-828); ngài Duy Nghiễm truyền cho Vân Nham Đàm Thành (783-814); ngài Đàm Thành truyền cho Động Sơn Lương Giới (807-869); ngài Lương Giới truyền cho Tào Sơn Bản Tịch (840-901); ngài Bản Tịch bèn lập một phái thiền mới, gọi là tông Tào Động, truyền bá thiền pháp ở vùng Giang-tây. Ngài Thạch Đầu Hi Thiên còn có một vị đệ tử xuất sắc nữa, là Thiên Hoàng Đạo Ngộ (748-807). Ngài Đạo Ngộ truyền cho Long Đàm Sùng Tín (?-?); ngài Sùng Tín truyền cho Đức Sơn Tuyên Giám (782-865); ngài Tuyên Giám truyền cho Tuyết Phong Nghĩa Tồn (822- 908); ngài Nghĩa Tồn truyền cho Văn Yển (864-949); ngài Văn Yen ở núi Vân-môn (tỉnh Quảng- đông), sáng lập một phái thiền mới, gọi là tông Vân Môn. Ngài Tuyết Phong Nghĩa Tồn lại có một vị đệ tử xuất sắc khác là Huyền Sa Sư Bị (835-908); ngài Sư Bị truyền cho La Hán Quế Sâm (867-928); ngài Quế Sâm truyền cho Pháp Nhãn Văn Ích (885-958). Ngài Văn Ích trụ trì chùa Thanh-lương ở Kim-lăng (Nam-kinh), thành lập một phái thiền mới, gọi là tông Pháp Nhãn.
Vậy là tông Thiền Trung-quốc, từ sau ngài Lục tổ Tuệ Năng thì phân làm hai chi Nam Nhạc và Thanh Nguyên. Chi Nam Nhạc lại phân thành hai phái là Lâm Tế và Qui Ngưỡng; và chi Thanh Nguyên thì phân làm ba phái là Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Thiền tông Trung-quốc gọi năm thiền phái đó (Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn) là “ngũ gia”. Lại nữa, phái Lâm Tế, từ ngài Nghĩa Huyền truyền đến đời thứ bảy là Thạch Sương Sở Viên (986-1039); ngài Sở Viên có hai vị đệ tử xuất sắc nhất là Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069) và Dương Kì Phương Hội (992-1049). Ngài Tuệ Nam lại lập ra phái Hoàng Long; và ngài Phương Hội thì lập ra phái Dương Kì; gộp cả năm phái ở trên và hai phái mới này, Phật giáo Trung-quốc gọi chung lịch sử truyền thừa từ sau tổ Tuệ Năng là “ngũ gia thất tông”.
Nhìn xuyên suốt lại, ở Trung-quốc, từ tổ Đạt Ma đến tổ Tuệ Năng, thời gian trải 250 năm (từ thời đại Nam Bắc-triều đến đầu thời đại nhà Đường), tuy nói là “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, nhưng ngôn thuyết của các thiền sư vẫn y cứ vào kinh điển, thiền phong thuần nhất, không có tông phái đối lập (dù sau ngài Đạo Tín có phân làm hai phái Ngưu Đầu tông và Đông Sơn tông, nhưng chỉ khác nhau về địa bàn hoằng hóa, còn thiền phong thì vẫn thuần nhất, không đối lập); có thể xem đó là thời kì thành lập của tông Thiền. Từ ngài Tuệ Năng, tình trạng phân phái đã bắt đầu xảy ra với hai tông phong đối lập, gọi là “Nam Năng, Bắc Tú ”, tức là thiền Nam tông và thiền Bắc tông; tuy vậy, hệ thống truyền thừa của phái Bắc tông không kéo dài được bao lâu thì bị đứt đoạn, và phái Nam tông được chính thức coi là tông Thiền Trung-quốc, kế thừa truyền thống từ Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma. Từ đó (tức từ giữa thời đại nhà Đường) cho đến thời Ngũ-đại, thời gian cũng khoảng 250 năm, với hai hệ thống Nam Nhạc và Thanh Nguyên, tông Thiền Trung-quốc đã phát triển vô cùng rực rỡ. Rất nhiều thiền sư liễu ngộ, đạo phong cao vợi, danh tiếng lừng lẫy, tiếp nối nhau xuất hiện để tiếp hóa đồ chúng. Các thiền viện mọc lên khắp nước, số người qui tụ về các thiền viện để tập thiền lúc nào cũng đông đảo. Sinh hoạt trong các thiền viện đều lấy “thanh qui” làm mẫu mực, nền nếp rõ ràng, làm cho uy danh của tông Thiền ngày càng tỏ rạng. Rồi như “trăm hoa đua nở”, từ hai hệ thống Nam Nhạc và Thanh Nguyên ấy, dần dần phát triển thành năm tông phái: Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Tông nào thanh thế cũng lớn lao. Đó là thời kì toàn thịnh của tông Thiền Trung-quốc.
Dưới triều đại nhà Tống, trong khoảng hơn 300 năm, trước hết, từ tông Lâm Tế phát xuất ra hai phái Hoàng Long và Dương Kì, đưa tông Thiền Trung-quốc tiến đến thời kì được gọi là “ngũ gia thất tông”. Tuy vậy đến cuối thời Bắc Tống, trong bảy thiền phái trên, chỉ có hai phái Lâm Tế và Tào Động là còn tiếp tục tông phong, còn các phái khác thì đã suy yếu. Trong thời kì này, các chủ trương dung hợp “tam giáo nhất trí” dần dần thịnh hành, các khuynh hướng “giáo thiền điều hợp” và “thiền tịnh song tu” cũng ngày càng được nhiều giới hưởng ứng, làm cho tông Thiền dần dần mất đi cái tính cách độc lập, chỉ còn đứng ở vị thế “thủ thành” mà thôi. Trải qua các đời Minh, Nguyên đến giữa nhà Thanh (cuối thế kỉ 18), tuy cũng có các vị thiền sư đạo cao đức trọng xuất hiện để tiếp tục dương cao thiền phong, nhưng nói chung, tông Thiền Trung-quốc vẫn không thể lấy lại được cái vị thế độc lập của mình, mà vẫn bị ràng buộc trong cái thế cục chung, là “Nho Thích điều hợp, giáo thiền nhất trí, thiền tịnh song tu”. Trong thời cận đại, một ngôi sao sáng trong tông Thiền Trung-quốc bỗng xuất hiện, đó là thiền sư Hư Vân (1839- 1958), một đời hoằng pháp không biết mệt mỏi, xây dựng tòng lâm, cực lực chấn hưng tông Thiền, nối lại được pháp mạch của đức Lục tổ.
BÀI TẬP
- Thế nào là đường khó đi và đường dễ đi?
- Thế nào là Thánh Đạo môn và Tịnh Độ môn?
- Tông Luật đã phán định như thế nào để phân ra tánh không giáo, tướng không giáo và duy thức viên giáo?
- Hãy phân biệt rõ thế nào là Hiển giáo, và thế nào là Mật giáo.
- “Tam luân giáo” là cách phán giáo của tông phái nào? Nội dung nói những gì?
- Lí do vì sao mà Thanh Lương quốc sư đã không chủ trương phán giáo?
| mục lục sách | bài tiếp theo |