KINH TRƯỜNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
| Mục lục |
PHẦN IV
30. KINH THẾ KÝ
Phẩm 12: THẾ BỔN DUYÊN[378]
[145a6] Phật bảo Tỳ-kheo:
“Sau khi qua khỏi hỏa tai, khi trời đất của thế gian này sắp sửa thành tựu trở lại, một số chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, mạng chung ở cõi trời Quang Âm thiên, sinh vào cung điện Phạm thiên trống không[379], rồi sinh tâm đắm nhiễm chỗ đó, yêu thích chỗ đó, nên nguyện cho chúng sanh khác cũng sinh vào nơi này. Sau khi phát sanh ý nghĩ này rồi, thì những chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, từ cõi trời Quang Âm thiên, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cung điện Phạm thiên trống không. Bấy giờ, vị Phạm thiên sinh ra trước liền tự nghĩ rằng: ‘Ta là Phạm vương, là Đại Phạm thiên vương, không có ai sáng tạo ra ta, ta tự nhiên mà có, không bẩm thọ cái gì từ ai hết; ở trong một nghìn thế giới ta hoàn toàn tự tại, thông rõ các nghĩa lý, giàu có sung mãn, có khả năng tạo hóa vạn vật; ta là cha mẹ của tất cả chúng sanh.’
“Các Phạm thiên sanh sau lại tự nghĩ rằng: ‘Vị Phạm thiên sanh trước kia là Phạm vương, là Đại Phạm thiên vương. Vị ấy tự nhiên mà có, không do ai có sáng tạo; là đấng Tối Tôn ở trong một nghìn thế giới, không bẩm thọ từ ai cái gì, thông rõ các nghĩa lýù, giàu có sung mãn, có khả năng sáng tạo vạn vật, là cha mẹ của tất cả chúng sanh. Ta từ vị ấy mà có.’
“Nhan sắc dung mạo của vị Phạm thiên vương này thường như đồng tử, cho nên Phạm vương được gọi là Đồng tử[380].
“Hoặc có lúc, khi thế giới này chuyển thành trở lại[381], phần lớn chúng sanh có kẻ sinh về Quang Âm thiên, bằng hóa sinh tự nhiên[382], sống bằng thức ăn là sự hoan hỉ[383], mình phát ra ánh sáng[384], có thần túc bay trong hư không, an vui không ngại, mạng sống lâu dài. Sau đó thế gian này biến thành đại hồng thủy, tràn ngập khắp nơi. Vào lúc bấy giờ thiên hạ hoàn toàn tối tăm, không có mặt trời mặt trăng, tinh tú, ngày đêm, và cũng không có năm tháng hay con số bốn mùa. Sau đó, khi thế gian này bắt đầu sắp chuyển biến, một số chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, từ cõi Quang Âm thiên sau khi mạng chung sinh đến thế gian này, bằng hóa sinh, và ăn bằng sự hoan hỷ, tự thân phát sáng, có thần túc bay trong hư không, an vui không ngại, sống lâu dài ở đây. Khi ấy, không có nam nữ, tôn ty, trên dưới, cũng không có những tên khác nhau. Các chúng cùng sinh ở thế gian này, cho nên gọi là chúng sinh.
“Bấy giờ, đất này tự nhiên phát sinh ra vị đất[385], ngưng tụ trong đất. Cũng như đề hồ[386], [145b] vị đất khi xuất hiện cũng như vậy; giống như sanh tô[387], vị ngọt như mật. Sau đó chúng sanh dùng tay nếm thử để biết vị ra sao. Vừa mới nếm, liền có cảm giác ngon, nên sanh ra mê đắm vị ấy. Như vậy, lần lượt nếm mãi không thôi nên sanh ra tham đắm, bèn lấy bàn tay mà vốc, dần thành thói ăn bốc[388]. Ăn bốc mãi như thế, những chúng sanh khác thấy vậy lại bắt chước ăn, và cách ăn này không bao giờ chấm dứt. Khi ấy, những chúng sanh này thân thể trở nên thô kịch, ánh sáng mất dần, không còn có thần túc, không thể bay đi. Bấy giờ, chưa có mặt trời mặt trăng. Ánh sáng của chúng sanh biến mất. Khi ấy, trời đất hoàn toàn tối om, không khác như trước. Một thời gian lâu, rất lâu về sau, có một trận cuồng phong mạnh nổi lên thổi nước biển lớn, sâu tám vạn bốn nghìn do-tuần, khiến cho biển bị tách làm hai, mang cung điện mặt Trời đặt ở lưng núi Tu-di, an trí quỹ đạo mặt Trời, mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây, đi quanh khắp thiên hạ.
“Nhật cung thứ hai mọc từ phương Đông, lặn phương Tây. Chúng sanh khi ấy nói: ‘Đấy là ngày hôm qua’[389] hoặc nói: ‘Không phải ngày hôm qua.’[390]
“Nhật cung thứ ba đi quanh núi Tu-di, mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây. Chúng sanh khi ấy bảo rằng: ‘Nhất định là một ngày’. Ngày, có nghĩa là nhân của ánh sáng đi trước[391], do đó gọi là ngày. Mặt trời có hai nghĩa: một, trụ thường độ[392]; hai, cung điện.[393] Nhìn xa từ bốn hướng, cung điện có hình tròn. Nóng lạnh dễ chịu, được tạo thành bởi vàng của trời; được xen bằng pha lê. Hai phần là vàng trời, thuần chân không pha tạp; trong suốt từ trong ra ngoài, ánh sáng rọi xa. Một phần là pha lê, thuần chân không tạp, trong suốt từ trong ra ngoài, ánh sáng rọi xa.
“Nhật cung rộng năm mươi mốt do-tuần. Đất và vách tường của cung điện mỏng như bẹ lau[394].
“Tường cung có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp chuông báu, bảy lớp hàng cây, các trang trí chung quanh đều được làm bằng bảy báu. Tường bằng vàng thì cửa bằng bạc, tường bạc thì cửa vàng; tường lưu ly thì cửa thủy tinh, tường thủy tinh thì cửa lưu ly; tường ngọc đỏ thì cửa mã não, tường mã não thì cửa ngọc đỏ; tường xa cừ thì cửa bằng các thứ báu, tường bằng các thứ báu thì cửa xa cừ. Lại nữa, các lan can kia, nếu thanh ngang bằng vàng thì cọc bằng bạc, thanh ngang bạc thì cọc vàng; thanh ngang lưu ly thì cọc thủy tinh, thanh ngang thủy tinh thì cọc lưu ly; thanh ngang ngọc đỏ thì cọc mã não, thanh ngang mã não thì cọc ngọc đỏ; thanh ngang bằng các loại báu thì cọc bằng xa cừ, thanh ngang xa cừ thì cọc là các loại báu. Lưới vàng thì linh bạc, lưới bạc thì linh vàng; lưới thủy tinh thì linh lưu ly, lưới lưu ly thì linh thủy tinh; lưới ngọc đỏ thì linh mã não, lưới mã não thì linh ngọc đỏ; lưới xa cừ thì linh bằng các loại báu, lưới bằng các loại báu thì linh xa cừ. Những cây bằng vàng này thì lá, hoa, quả bạc; cây bằng bạc thì [145c] lá, hoa, quả bằng vàng; cây bằng lưu ly thì hoa quả thủy tinh, cây thủy tinh thì hoa quả lưu ly; cây bằng ngọc đỏ thì hoa quả mã não, cây mã não thì hoa quả ngọc đỏ; cây bằng xa cừ thì hoa quả các loại báu, cây là các loại báu thì hoa quả là xa cừ. Tường của cung điện có bốn cửa, cửa của nó có bảy bực thềm, bao quanh bằng lan can; có lầu các đền đài, ao tắm, vườn rừng đều theo thứ lớp đối nhau, sanh các loại hoa báu, hàng nào hàng nấy đều xứng nhau; có nhiều loại cây ăn trái, hoa lá nhiều màu sắc, hương thơm ngạt ngào của cây cỏ lan tỏa xa khắp bốn phương, cùng các loài chim ríu rít hòa vang.
“Nhật cung điện kia, được duy trì bởi năm loại gió[395]. Một là trì phong, hai là dưỡng phong, ba là thọ phong, bốn là chuyển phong, năm là điều phong. Điện chính, nơi Nhật thiên tử ngự, hoàn toàn được xây dựng bằng vàng ròng, cao mười sáu do-tuần. Điện có bốn cửa, đều có lan can bao quanh. Tòa của Nhật thiên tử rộng nửa do-tuần, làm bằng bảy báu, trong sạch mềm mại, giống như thiên y. Nhật thiên tử tự thân phóng ra ánh sáng chiếu điện vàng; ánh sáng điện vàng chiếu khắp Nhật cung; ánh sáng của Nhật cung lại chiếu ra khắp bốn phương thiên hạ. Tuổi thọ của Nhật thiên tử năm trăm năm nhà trời; con cháu đều kế thừa nhau không bao giờ gián đoạn. Cung điện này không bao giờ bị hoại diệt, trong vòng thời gian là một kiếp. Khi cung điện mặt trời di chuyển, thì Nhật thiên tử không có ý di chuyển rằng: ‘Ta đi. Ta dừng.’Mà chỉ luôn luôn hưởng thụ ngũ dục. Lúc mà cung điện mặt trời vận hành thì vô số trăm nghìn Chư Thiên, thiên thần đi theo dẫn đường trước, hoan hỷ không mệt mỏi, thích đi nhanh nhẹn, vì vậy Nhật thiên tử được gọi là ‘Nhanh nhẹn.’[396]
“Thân Nhật thiên tử phát ra nghìn tia sáng; năm trăm tia sáng chiếu xuống, và năm trăm tia sáng chiếu chung quanh, đó là vì công đức của nghiệp đời trước nên có nghìn tia sáng này. Thế nên Nhật thiên tử còn gọi là Thiên Quang[397]. Thế nào là công đức của nghiệp đời trước? Hoặc có một người phát tâm cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, cùng cứu giúp những người đói khát cùng khốn, cho họ đồ ăn thức uống, y phục, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, phòng xá, đèn đuốc, tùy thời ban phát, tùy theo nhu cầụ, không trái ý người, và cúng dường cho các vị Hiền Thánh trì giới. Do bởi nhân duyên vô số pháp hỷ quang minh khác nhau kia, mà thiện hoan hỷ. Như vua Quán đảnh dòng Sát-lị lúc bắt đầu lên ngôi, thiện tâm hoan hỷ cũng lại như vậy. Do nhân duyên này, thân hoại mạng chung làm Nhật thiên tử, được Nhật cung điện, có nghìn tia sáng, cho nên nói là nghiệp lành được nghìn tia sáng.
“Lại nữa, do duyên gì mà gọi là ánh sáng của nghiệp đời trước? Hoặc có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi, không ác khẩu, [146a] không nói dối, không ỷ ngữ, không tham giữ, không sân nhuế, không tà kiến, vì những nhân duyên này mà tâm lành hoan hỷ. Giống như đầu ngã tư đường có hồ tắm lớn trong mát không nhơ, có người đi xa, mệt mỏi nóng khát, lại vào trong hồ nước này tắm rửa cho mát mẻ rồi cảm thấy vui mừng yêu thích; người thực hành mười điều lành, tâm lành vui mừng của họ lại cũng như vậy. Thân người này sau khi thân hoại mạng chung, làm Nhật thiên tử, sống ở Nhật cung điện, có nghìn tia sáng, vì nhân duyên này cho nên gọi là ánh sáng nghiệp lành.
“Lại nữa, vì duyên gì gọi là nghìn tia sáng? Hoặc có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không dối, không uống rượu; do những nhân duyên này, mà thiện tâm hoan hỷ; thân hoại mạng chung, làm Nhật thiên tử, sống ở Nhật cung điện, có nghìn tia sáng. Do những nhân duyên như vậy nên gọi là nghìn tia sáng nghiệp lành.
“Trong sáu mươi niệm khoảnh[398] gọi là một la-da[399], ba mươi la-da gọi là ma-hầu-đa[400], trăm ma-hầu-đa gọi là ưu-ba-ma[401]. Nhật cung điện mỗi năm có sáu tháng đi theo hướng Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm; cực Nam không vượt qua khỏi Diêm-phù-đề. Mặt trời di chuyển về hướng Bắc, cũng vậy.
“Vì duyên gì nên ánh sánh mặt trời nóng bức? Có mười nhân duyên. Những gì là mười? Một, ngoài núi Tu-di có núi Khư-đà-la[402] cao bốn vạn hai nghìn do-tuần, rộng bốn vạn hai nghìn do-tuần, biên núi không ước lượng được; núi được tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đây là duyên thứ nhất ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Hai, bên ngoài núi Khư-đà-la có núi Y-sa-đà[403] cao hai vạn một nghìn do-tuần, rộng cũng hai vạn một nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng chiếu đến núi này, xúùc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ hai ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Ba, bên ngoài núi Y-sa-đà có núi Thọ-đề-đà-la[404], bên trên cao một vạn hai nghìn do-tuần, rộng một vạn hai nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, tạo thành bởi bảy báu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ ba ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Bốn, ở ngoài cách núi Thọ-đề-đa-la không xa có núi gọi là Thiện kiến[405], cao sáu nghìn do-tuần, rộng sáu nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ tư để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Năm, ở ngoài núi Thiện kiến có núi Mã tự[406] cao ba nghìn do-tuần, ngang rộng cũng ba nghìn do-tuần, chu vi là vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ năm để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Sáu, ở ngoài cách núi Mã tự không xa có núi Ni-di-đà-la[407], [146b] cao một nghìn hai trăm do-tuần, rộng một nghìn hai trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt, đó là duyên thứ sáu để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Bảy, ở ngoài cách núi Ni-di-đà-la không xa có núi Điều phục[408], cao sáu trăm do-tuần, rộng cũng sáu trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, núi được hình thành bởi bảy báu, khi áng sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ bảy để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Tám, ở ngoài núi Điều phục có núi Kim cang luân[409], cao ba trăm do-tuần, rộng ba trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, tạo thành bởi bảy báu, khi ánh sáng mặt trời chiếu đến sẽ phát ra nhiệt. Đó là duyên thứ tám để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Lại nữa, bên trên một vạn do-tuần có cung điện Trời gọi là Tinh tú, tạo thành bởi lưu ly. Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào nó, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt. Đó là duyên thứ chín để ánh sáng mặt trời nóng bức.
“Lại nữa, ánh sáng cung điện mặt trời chiếu xuống đại địa, xúc chạm mà phát sinh ra nhiệt.
“Đó là muời duyên thứ mười làm cho ánh sáng mặt trời nóng bức.”
Bấy giờ, Thế Tôn nói bài tụng:
Do mười nhân duyên này,
Mặt trời gọi Thiên quang;
Ánh sáng phát nóng bức:
Được nói mặt trời Phật.
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tại sao cung điện mặt trời mùa đông thì lạnh để không thể ở gần được? Có ánh sáng mà sao lạnh? Có mười ba duyên, tuy có ánh sáng nhưng vẫn lạnh, Những gì là mười ba?
“Một, vì giữa hai núi Tu-di và Khư-đà-la có nước, rộng tám vạn bốn nghìn do-tuần, chu vi thì vô lượng. Nước này sinh ra rất nhiều loại hoa khác nhau như: hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa bát-đầu-ma, hoa phân-đà-lợi, hoa tu-kiền-đề; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ nhất để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Hai, khoảng cách giữa hai núi Khư-đà-la và Y-sa-đà-la có nước, rộng bốn vạn hai nghìn do-tuần, dọc ngang bốn vạn hai nghìn do-tuần, chu vi thì vô lượng. Nước này sinh ra các loài hoa khác nhau. Khi ánh sáng chiếu đến, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ hai để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Ba, giữa hai núi Y-sa-đà-la và Thọ-đề-đà-la có nước, rộng hai vạn một nghìn do-tuần, chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau. Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ ba ánh sáng mặt trời lạnh.
“Bốn, giữa hai núi Thiện kiến và núi Thọ-đề có nước, rộng hai ngàn do-tuần, chu vi thì vô lượng, nơi này có nước, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống [146c] thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ tư để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Năm, giữa hai núi Thiện kiến và núi Mã tự có nước, rộng sáu nghìn do-tuần, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ năm để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Sáu, giữa hai núi Mã tự và núi Ni-di-đà-la có nước, rộng một nghìn hai trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ sáu để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Bảy, giữa hai núi Ni-di-đà-la và núi Điều phục rộng sáu trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ bảy để sinh ra ánh sáng mặt trời lạnh.
“Tám, giữa hai núi Điều phục và núi Kim cang luân có nước, rộng ba trăm do-tuần, chu vi thì vô lượng, sinh ra các loài hoa khác nhau; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ tám để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Lại nữa,[410] các sông ngòi, bển cả trong Diêm-phù-lị-địa khi được ánh sáng mặt trời chiếu xuống một lần chạm nhau thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ chín để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Đất Diêm-phù-đề có sông ít, đất Câu-da-ni có nước nhiều. Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ mười để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Sông ngòi của cõi Câu-da-ni thì ít, nước của cõi Phất-vu-đãi thì nhiều; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm mà sinh ra lạnh. Đó là duyên thứ mười một để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Sông ngòi của Phất-vu-đãi thì ít, sông ngòi của Uất-đơn-viết thì nhiều; khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, xúc chạm nhau thì sinh ra lạnh, đó là duyên thứ mười hai để ánh sáng mặt trời lạnh.
“Lại nữa, ánh sáng của cung điện mặt Trời chiếu xuống nước của biển cả, thì khi ánh sáng mặt trời chiếu, xúc chạm mà sinh ra lạnh, đó là duyên thứ mười ba để ánh sáng mặt trời lạnh.”
Bấy giờ, Phật nói bài tụng:
Do mười ba duyên này.
Mặt trời gọi Thiên quang
Ánh sáng này lạnh trong:
Được nói Mặt Trời Phật.
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Cung điện mặt Trăng, chất của nó là tổn, khi đầy khi vơi[411], ánh sáng sút giảm, cho nên Nguyệt cung được gọi là tổn[412]. Mặt trăng có hai nghĩa: một là trụ thường độ, hai gọi là cung điện. Do từ bốn phương xa mà nhìn, thấy là tròn. Lạnh ấm điều hòa, được tạo thành bởi bạc trời và lưu ly. Hai phần là thuần bạc trời ròng không pha tạp, trong suốt trong ngoài, ánh sánh chiếu xa; một phần bằng lưu ly ròng không pha tạp, trong suốt trong ngoài, ánh sáng chiếu xa. Cung điện mặt trăng, rộng bốn mươi chín do-tuần, tường cung điện cùng đất mỏng như bẹ lau[413]. Tường cung điện có bảy lớp, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, [147a] bảy lớp linh báu, bảy lớp hàng cây, trang sức chung quanh bằng bảy báu,… cho đến, vô số các loài chim ríu rít hòa vang.
“Cung điện mặt trăng này được năm thứ gió giữ gìn: một là trì phong, hai là dưỡng phong, ba là thụ phong, bốn là chuyển phong, năm là điều phong. Chánh điện, nơi ngự của Nguyệt thiên tử, làm bằng lưu ly, cao mười sáu do-tuần. Điện có bốn cửa, chung quanh là lan can. Tòa của Nguyệt thiên tử, rộng nửa do-tuần, được làm thành bởi bảy báu, trong sạch và mềm mại, giống như thiên y. Thiên tử mặt trăng trên thân phóng ra ánh sáng, chiếu soi điện lưu ly; ánh sáng của điện lưu ly chiếu soi cung điện mặt trăng, và ánh sáng cung điện mặt trăng chiếu soi bốn cõi thiên hạ. Tuổi thọ của thiên tử mặt trăng là năm trăm năm, con cháu thừa kế nhau không có hệ khác[414]. Cung điện này không bị hủy hoại trong vòng một kiếp. Lúc cung điện mặt trăng di chuyển, thiên tử của mặt trăng này không có ý niệm di chuyển, rằng: ‘Ta đi. Ta dừng.’ Mà chỉ luôn luôn hưởng thụ ngũ dục. Khi cung điện mặt trăng di chuyển, thì có vô số trăm nghìn các Đại thiên thần, thường ở trước dẫn đường, hoan hỷ không mệt mỏi, ưa thích nhanh nhẹn, vì vậy nên Nguyệt thiên tử được gọi là ‘nhanh nhẹn[415].’
“Thân Nguyệt thiên tử phát ra nghìn tia sáng, năm trăm tia sáng chiếu xuống, và năm trăm tia sáng chiếu hai bên. Đó là do công đức của nghiệp đời trước nên có ánh sáng này, thế nên Nguyệt thiên tử còn gọi là Thiên quang[416]. Thế nào là công đức nghiệp đời trước? Thế gian có một người phát tâm cúng dường Sa-môn, Bà-la-môn, cùng bố thí cho những người đói khát cùng cực, cho họ đồ ăn thức uống, y phục, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, phòng xá, đèn đuốc, tùy thời ban phát, tùy theo nhu cầu, mà không trái ý người, và cúng dường cho các vị Hiền Thánh trì giới. Do vô số pháp hỷ khác nhau ấy, thiện tâm quang minh. Như vị vua Quán đảnh dòng Sát lợi, khi mới đang vương vị, thiện tâm hoan hỷ, cũng lại như vậy. Vì nhân duyên này, nên thân hoại mạng chung làm Nguyệt thiên tử, cung điện mắt trăng có nghìn tia sáng, cho nên nói là nghiệp lành được nghìn tia sáng.
“Lại nữa, do nghiệp gì được nghìn ánh sáng? Thế gian có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không hai lưỡi, không ác khẩu, không nói dối, không ỷ ngữ, không tham giữ, không sân nhuế, không tà kiến; do những nhân duyên này mà thiện tâm hoan hỷ. Giống như đầu ngã tư đường có hồ tắm lớn trong mát không dơ, có người đi xa, mệt mỏi nóng khát, vào trong hồ nước này, tắm rửa mát mẻ, hoan hỷ khoái lạc; người thực hành mười điều lành, thiện tâm hoan hỷ, lại cũng như vậy. Người này sau khi thân hoại mạng chung, sẽ làm Nguyệt thiên tử, sống ở cung điện mặt trăng, có nghìn tia sáng. Do nhân duyên này [147b] cho nên gọi là nghìn ánh sáng nghiệp lành.[417]
“Lại nữa, do duyên gì được nghìn tia sáng? Thế gian có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không lừa dối, không uống rượu, vì những nhân duyên này, thiện tâm hoan hỷ; thân hoại mạng chung, làm Nguyệt thiên tử, sống ở cung điện mặt trăng, có nghìn tia sáng. Do những nhân duyên như vậy nên gọi là nghìn tia sáng nghiệp lành.
“Trong sáu mươi niệm khoảnh[418] gọi là một la-da, ba mươi la-da gọi là ma-hầu-đa, trăm ma-hầu đa gọi là ưu-bà-ma. Nếu cung điện mặt trời mỗi năm có sáu tháng đi về phía Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm, cực Nam không vượt qua khỏi Diêm-phù-đề; thời gian ấy, cung điện mặt Trăng nửa năm đi về phía nam, không vượt qua khỏi Diêm-phù-đề. Nguyệt Bắc hành cũng như vậy.
“Vì duyên gì mà cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít? Có ba nhân duyên nên cung điện mặt trăng khuyết giảm mỗi khi một ít: Một, mặt trăng phát xuất từ phương góc, là duyên thứ nhất để mặt trăng tổn giảm. Lại nữa, trong cung điện mặt trăng có các Đại thần đều mặc y phục màu xanh, theo thứ tự mà lên, trú xứ cũng trở thành xanh, cho nên mặt trăng bị tổn giảm; đó là duyên thứ hai để mặt trăng mỗi ngày mỗi giảm. Lại nữa, cung điện mặt trời có sáu mươi tia sáng, tia sáng này chiếu vào cung điện mặt trăng, ánh chiếu khiến cho không hiện, do đó nơi có ánh chiếu, nơi ấy của mặt trăng bị tổn giảm; đó là duyên thứ ba để ánh sáng mặt trăng tổn giảm.
“Lại nữa, vì duyên gì mà ánh sáng cung điện mặt trăng đầy dần? Có ba nhân duyên khiến cho ánh sáng mặt trăng đầy dần. Những gì là ba? Một, mặt trăng hướng về phương vị chánh cho nên ánh sáng mặt trăng đầy. Hai, các thần cung điện mặt trăng hết thảy đều mặt y phục màu xanh, và Thiên tử mặt trăng vào ngày rằm ngồi vào giữa, cùng nhau hưởng lạc, ánh sáng chiếu khắp, lấn át ánh sáng Chư Thiên, nên ánh sáng đầy khắp. Giống như bó đuốc lớn được đốt lên trong đám đèn đuốc, sẽ át hẳn ánh sáng các ngọn đèn. Thiên tử mặt trăng cũng lại như vậy. Vào ngày rằm, ở giữa chúng Chư Thiên, át hẳn tất cả các ánh sáng khác, chỉ có ánh sáng của ông độc chiếu, cũng như vậy. Đó là duyên thứ hai. Ba, Thiên tử mặt trời tuy đã có sáu mươi tia sáng chiếu soi cung điện mặt trăng, nhưng vào ngày rằm, thiên tử mặt trăng cũng có thể dùng ánh sáng chiếu nghịch lại, khiến cho nó không thể che khuất được. Đó là ba nhân duyên cho cung điện mặt trăng tròn đầy mà không bị tổn giảm.
“Lại nữa vì duyên gì mà mặt trăng có bóng đen? Vì cái bóng cây Diêm phù in vào trong mặt trăng, nên mặt trăng có bóng.”
Phật bảo Tỳ-kheo:
“Tâm hãy như mặt trăng, trong mát không nóng bức, khi đến nhà đàn-việt, chuyên niệm không tán loạn.
“Lại vì duyên gì mà có các sông ngòi? Vì mặt trời, [147c] mặt trăng có độ nóng. Do độ nóng này mà có nung đốt. Do có nung đốt nên có mồ hôi. Do mồ hôi mà thành sông ngòi. Do đó thế gian có sông ngòi.
“Vì nhân duyên gì mà thế gian có năm loại hạt giống? Có cuồng phong dữ từ thế giới chưa bị hủy diệt thổi hạt giống đến sanh ở quốc độ này. Một là hạt từ rễ; hai, hạt từ cọng; ba, hạt từ đốt; bốn, hạt từ ruột rỗng; năm, hạt từ hạt. Đó là năm loại hạt. Vì nhân duyên này mà thế gian có năm loại hạt giống xuất hiện.
“Lúc ở Diêm-phù-đề đang là giữa trưa thì ở Phất-vu-đãi mặt trời lặn, ở Câu-da-ni mặt trời mọc, ở Uất-đơn-viết là nửa đêm. Câu-da-ni giữa trưa thì ở Diêm-phù-đề mặt trời lặn. Uất-đan-viết mặt trời mọc, ở Phất-vu-đãi là nửa đêm; ở Uất-đan-viết giữa trưa thì ở Câu-da-ni mặt trời lặn; ở Phất vu đãi mặt trời mọc, thì Diêm-phù-đề là nửa đêm. Nếu ở Phất-vu-đãi là giữa trưa, thì ở Uất-đan-viết mặt trời lặn; ở Diêm-phù-đề mặt trời mọc, thì ở Câu-da-ni là nửa đêm. Phương Đông của Diêm-phù-đề, thì là phương Tây ở Phất-vu-đãi; phương Tây của Diêm-phù-đề là phương Đông của Câu-da-ni; phương Tây của Câu-da-ni là phương Đông của Uất-đơn-viết; phương Tây của Uất-đơn-viết là phương Đông của Phất-vu-đãi.
“Diêm-phù-đề[419], sở dĩ được gọi là Diêm-phù vì ở dưới có núi vàng cao ba mươi do-tuần, do cây Diêm-phù[420] sanh ra nên được gọi là vàng Diêm-phù[421]. Cây Diêm-phù có trái của nó như tai nấm[422], vị của nó như mật; cây có năm góc[423] lớn, bốn mặt bốn góc, ở trên có một góc. Những trái ở bên góc phía Đông của nó được Càn-thát-bà ăn. Trái ở góc phía Nam của nó được người bảy nước ăn. Bảy nước[424] là: một, nước Câu-lâu; hai, Câu-la-ba; ba, Tỳ-đề; bốn, Thiện-Tỳ-đề; năm, Mạn-đà; sáu, Bà-la; bảy, Bà-lị. Trái ở góc phía Tây được hải trùng[425] ăn. Trái ở góc phía Bắc được cầm thú ăn. Trái ở phía góc trên được Tinh tú thiên ăn.[426] Phía Bắc của bảy nước lớn có bảy hòn núi Đen lớn, một là Lõa thổ, hai là Bạch hạc, ba là Thủ cung, bốn là Tiên sơn, năm là Cao sơn, sáu là Thiền sơn, bảy là Thổ sơn. Trên mặt của bảy núi đen này có bảy vị Tiên nhơn Bà-la-môn. Trú xứ của bảy Tiên nhơn[427] này, một là Thiện đế, hai là Thiện quang, ba là Thủ cung, bốn là Tiên nhơn, năm là Hộ cung, sáu là Già-na-na, bảy là Tăng ích.”
Phật bảo Tỳ-kheo[428]:
“Khi kiếp sơ[429], chúng sanh sau khi nếm vị đất, rồi tồn tại một thời gian lâu dài. Những ai ăn nhiều, nhan sắc trở nên thô kịch, khô héo. Những ai ăn ít, nhan sắc tươi sáng, [148a] mịn màng. Từ đó về sau mới phân biệt nhan sắc tướng mạo của chúng sanh có hơn có kém, và sinh ra thị phi với nhau, nói rằng: ‘Ta hơn ngươi; ngươi không bằng ta.’ Do tâm của chúng phân biệt kia và ta, ôm lòng cạnh tranh, cho nên vị đất tiêu hết.
“Sau đó sinh ra một loại da đất[430], hình dáng giống như cái bánh mỏng; màu sắc, hương vị của nó rất là thanh khiết. Bấy giờ chúng sanh tụ tập lại một chỗ, tất cả đều ảo não buồn khóc, đấm ngực mà nói: ‘Ối chao là tai họa! Vị đất nay bỗng biến mất.’ Giống như hiện nay người được đầy ắp vị ngon, bảo là ngon lành, nhưng sau đó lại bị mất đi nên lấy làm buồn lo. Kia cũng như vậy buồn lo hối tiếc. Sau đó, chúng ăn lớp da đất, dần quen cái vị của nó. Những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở thành thô kịch khô héo. Những ai ăn ít thì nhan sắc tươi sáng mịn màng. Từ đó mới phân biệt nhan sắc tướng mạo của chúng sanh có xấu có đẹp, và sinh chuyện thị phi với nhau, nói rằng: ‘Ta hơn ngươi. Ngươi không bằng ta.’ Do tâm chúng phân biệt kia và ta, ôm lòng cạnh tranh, nên nấm đất cạn tiêu hết.
“Sau đó lại xuất hiện một loại da ngoài của đất[431], càng lúc càng dày thêm, màu của nó như thiên hoa[432], mềm mại của nó như thiên y, vị của nó như mật. Bấy giờ, các chúng sanh lại lấy nó cùng ăn, sống lâu ngày ở thế gian. Những ai càng ăn nhiều thì nhan sắc càng sút kém. Những ai ăn ít thì nhan sắc tươi sáng mịn màng. Từ đó phân biệt nhan sắc tướng mạo của chúng sanh có xấu có đẹp, và do thế mà sinh chuyện thị phi với nhau rằng: ‘Ta hơn ngươi. Ngươi không bằng ta.’ Vì tâm chúng phân biệt ta và người, sinh lòng cạnh tranh, nên lớp da ngoài của đất tiêu hết.
“Sau đó, lại xuất hiện loại lúa tẻ[433] mọc tự nhiên, không có vỏ trấu[434], không cần phải gia thêm chế biến mà chúng đã đầy đủ các thứ mỹ vị. Bấy giờ, chúng sanh tụ tập nhau lại nói: ‘Ối chao là tai họa! Nay màng đất bỗng nhiên biến mất.’ Giống như hiện tại người gặp họa gặp nạn thì than rằng: ‘Khổ thay!’ Bấy giờ chúng sanh ảo não, buồn than, cũng lại như vậy.
“Sau đó, chúng sanh cùng nhau lấy lúa tẻ tự nhiên này ăn, và thân thể chúng, trở nên thô xấu, có hình dáng nam nữ, nhìn ngắm nhau, sinh ra dục tưởng; họ cùng nhau tỳm nơi vắng làm hành vi bất tịnh, các chúng sanh khác thấy than rằng: ‘Ôi, việc làm này quấy! Tại sao chúng sanh cùng nhau sinh ra chuyện này?’ Người nam làm việc bất tịnh kia, khi bị người khác quở trách, tự hối hận mà nói rằng: ‘Tôi đã làm quấy.’Rồi nó gieo mình xuống đất. Người nữ kia thấy người nam này vì hối lỗi mà gieo mình xuống đất, không đứng lên, liền đưa thức ăn đến. Chúng sanh khác thấy vậy, hỏi người nữ rằng: ‘Ngươi đem thức ăn này để cho ai?’ Đáp: ‘Chúng sanh hối lỗi kia đọa lạc[435] thành kẻ làm điều bất thiện, tôi đưa thức ăn cho nó.’ Nhân lời nói này, nên thế gian liền có danh từ ‘người chồng bất thiện’,[436] và vì việc đưa [148b] cơm cho chồng nên được gọi là vợ[437].
“Sau đó, chúng sanh bèn làm chuyện dâm dật, pháp bất thiện tăng. Để tự che dấu, chúng tạo ra nhà cửa. Do vì nhân duyên này, bắt đầu có danh từ ‘nhà.’[438]
“Sau đó, sự dâm dật của chúng sanh càng ngày càng tăng, nhân đây đã trở thành chồng vợ. Có các chúng sanh khác, khi tuổi thọ hết, hành hết, phước hết, từ cõi trời Quang Âm sau khi mạng chung lại sinh vào thế gian này, ở trong thai mẹ, nhân đây thế gian có danh từ ‘mang thai.’[439]
“Bấy giờ, trước tiên tạo thành Chiêm-bà, kế đến tạo thành Già-thi, Ba-la-nại, và tiếp theo là thành Vương xá[440]. Lúc mặt trời mọc thì bắt đầu kiến tạo, tức thì lúc mặt trời mọc hoàn thành[441]. Do nhân duyên này nên thế gian liền có tên thành, quách, quận, ấp, là chỗ nhà vua cai trị.
“Bấy giờ, khi chúng sanh bắt đầu ăn lúa tẻ mọc tự nhiên, sáng sớm gặt thì chiều tối lại chín, chiều tối gặt thì sáng sớm lại chín. Sau khi được gặt, lúa sinh trở lại, hoàn toàn không có thân cuống lúa.
“Rồi thì, có chúng sanh thầm nghĩ rằng: ‘Sao ta mỗi ngày mỗi gặt chi cho mệt nhọc? Nay hãy gom lấy đủ cho nhiều ngày.’ Nó bèn gặêt gộp lại, chứa số lương đủ cho nhiều ngày. Người khác sau đó gọi nó: ‘Nay chúng ta hãy cùng đi lấy lúa.’ Người này bèn trả lời: ‘Tôi đã chứa đủ sẵn rồi, không cần lấy thêm nữa. Anh muốn lấy, cứ tùy ý đi lấy một mình.’ Người kia bèn nghĩ thầm: ‘Gã này có thể lấy đủ lương cho hai ngày, sao ta không thể lấy đủ cho ba ngày?’ Người ấy bèn chứa dư ba ngày lương. Lại có những người khác gọi nó: ‘Hãy cùng đi lấy lương.’ Nó liền đáp: ‘Ta đã lấy dư ba ngày lương rồi. Các người muốn lấy, tùy ý đi mà lấy.’ Các người kia bèn nghĩ: ‘Người kia có thể lấy ba ngày lương, sao ta không thể lấy năm ngày lương?’ Rồi chúng lấy năm ngày lương. Bấy giờ, chúng sanh tranh nhau cất chứa lương dư, nên lúa tẻ ấy bèn sanh ra vỏ trấu; sau khi được gặt, không mọc trở lại nữa; chỉ còn trơ cọng khô mà thôi.
“Bấy giờ chúng sanh tụ tập lại một chỗ, ảo não buồn khóc, đấm ngực than: ‘Ôi, đây là một tai họa!’ và tự thương trách rằng: ‘Chúng ta vốn đều do biến hóa mà sinh, ăn bằng tư niệm, tự thân phát ánh sáng, có thần túc bay trên không, an vui không ngại. Sau đó vị đất bắt đầu sinh ra, sắc vị đầy đủ. Khi ấy chúng ta nếm thử vị đất này, rồi tồn tại lâu trong đời này. Những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở thành thô xấu. Những ai ăn nó ít thì nhan sắc tươi sáng, mịn màng; từ đó tâm chúng sanh có phân biệt ta và người, sinh tâm kiêu mạn, bảo rằng: ‘Sắc ta hơn. Sắc ngươi không bằng.’ Do kiêu mạn, tranh nhau sắc, nên vị đất tiêu diệt. Lại sanh ra lớp da đất, có đầy đủ sắc hương vị. Chúng ta lúc ấy cùng thu lấy để ăn, tồn tại lâu dài ở thế gian. Những ai [148c] ăn nhiều thì da sắc trở thành thô xấu. Những ai ăn ít đi thì da sắc tươi sáng mịn màng, từ đó có phân biệt ta và người, sinh tâm kiêu mạn bảo rằng: ‘Sắc ta hơn, sắc ngươi không bằng.’ Vì tranh nhau về sắc mà kiêu mạn nên lớp da đất biến mất, và xuất hiện lớp da ngoài của đất, càng lúc càng dày lên, đủ cả sắc, hương, mùi vị. Chúng ta khi ấy lại cùng nhau thu lấy ăn, tồn tại dài ở thế gian. Những ai ăn nhiều thì sắc da trở thành thô xấu. Những ai ăn ít thì sắc da tươi sáng mịn màng, từ đó có phân biệt ta và người, sinh tâm kiêu mạn bảo rằng: ‘Sắc ta hơn, sắc ngươi không bằng.’ Vì sắc tranh nhau mà kiêu mạn, nên lớp da ngoài của đất biến mất, để rồi sinh ra loại lúa tẻ mọc tự nhiên, đầy đủ sắc, hương, vị. Chúng ta lúc ấy lại cùng nhau thu lấy ăn, sớm mai thu hoạch buổi chiều lại chín, buổi chiều thu hoạch sáng mai lại chín, vì thu hoạch xong thì sinh trở lại nên không cần phải gom thu. Nhưng vì chúng ta lúc này tranh nhau tích lũy, nên lúa này sinh ra vỏ trấu, và sau khi thu gặt xong không sinh trở lại nữa, mà hiện tại chỉ còn có rễ và thân mà thôi. Nay chúng ta hãy cùng nhau phân phối ruộng nhà, phân chia bờ cõi.’
“Rồi chúng phân chia ruộng đất, vạch bờ cõi khác nhau, phân biệt của người và của ta. Sau đó mọi người tự cất dấu lúa thóc của mình, trộm lấy lúa ruộng người khác. Các chúng sanh khác trông thấy, nên nói: ‘Việc ngươi làm là quấy! Việc ngươi làm là quấy! Tại sao cất dấu vật của chính mình, mà đi trộm tài vật của người?’ Chúng bèn quở trách rằng: ‘Từ nay về sau không được tái phạm việc trộm cắp nữa!’ Nhưng những việc trộm cắp như vậy vẫn tái phạm không dứt, mọi người lại phải quở trách: ‘Việc ngươi làm sai quấy! Tại sao không chịu bỏ?’ Rôi chúng lấy tay mà đánh, lôi đến giữa đám đông, báo cáo cùng mọi người rằng: ‘Người này tự cất dấu thóc lúa, đi trộm lúa ruộng của người.’ Người ăn trộm nói lại: ‘Người kia đã đánh tôi.’ Mọi người nghe xong, ấm ức rơi lệ, đấm ngực nói rằng: ‘Thế gian trở nên xấu ác, nên đã sinh ra pháp ác này chăng?’ Nhân đấy mà sinh ra ưu kếtnhiệt nãokhổ báo; rằng: ‘Đây là cội nguồn của của sinh, già, bệnh, chết; là nguyên nhân rơi vào đường ác. Do có ruộng nhà, bờ cõi riêng khác, nên sinh ra tranh dành kiện tụng, đưa đến oán thù, không ai có thể giải quyết. Nay chúng ta hãy lập lên một người chủ bình đẳng[442], để khéo léo giữ gìn nhơn dân, thưởng thiện phạt ác. Mọi người trong chúng ta đều cùng nhau giảm bớt phần của mình để cung cấp cho người chủ này.’
“Lúc đó, trong chúng có một người hình thể vạm vỡ, dung mạo đoan chánh, rất có oai đức. Mọi người bảo rằng: ‘Nay, chúng tôi muốn tôn bạn lên làm chủ, để khéo léo giữ gìn nhơn dân, thưởng thiện phạt ác. Chúng tôi sẽ giảm bớt phần của mình mà cung cấp.’ Người này nghe xong, liền nhận làm chủ. Ai đáng thưởng thì thưởng; ai đáng phạt thì phạt. Từ đây mới bắt đầu có danh từ ‘dân chủ’[443].
“Dân chủ ban đầu có con tên là Trân Bảo[444]; [149a] Trân Bảo có con tên là Hảo Vị; Hảo Vị có con tên là Tĩnh Trai; Tĩnh Trai có con tên là Đảnh Sanh; Đảnh Sanh có con tên là Thiện Hành; Thiện Hành có con tên là Trạch Hành; Trạch Hành có con tên là Diệu Vị; Diệu Vị có con tên là Vị Đế; Vị Đế có con tên là Thủy Tiên; Thủy Tiên có con tên là Bách Trí; Bách Trí có con tên là Thị Dục; Thị Dục có con tên là Thiện Dục; Thiện Dục có con tên là Đoạn Kết; Đoạn Kết có con tên là Đại Đoạn Kết; Đại Đoạn Kết có con tên là Bảo Tạng; Bảo Tạng có con tên là Đại Bảo Tạng; Đại Bảo Tạng có con tên là Thiện Kiến; Thiện Kiến có con tên là Đại Thiện Kiến; Đại Thiện Kiến có con tên là Vô Ưu; Vô Ưu có con tên là Châu Chử; Châu Chử có con tên là Thực Sanh; Thực Sanh có con tên là Sơn Nhạc; Sơn Nhạc có con tên là Thần Thiên; Thần Thiên có con tên là Khiển Lực; Khiển Lực có con tên là Lao Xa; Lao Xa có con tên là Thập Xa; Thập Xa có con tên là Bách Xa; Bách Xa có con tên là Lao Cung; Lao Cung có con tên là Bách Cung; Bách Cung có con tên là Dưỡng Mục; Dưỡng Mục có con tên là Thiện Tư.
“Từ Thiện Tư trở về sau có mười họ, Chuyển Luân Thánh vương nối tiếp nhau không dứt: Một tên là Già-nậu-thô, hai tên là Đa-la-bà, ba tên là A-diệp-ma, bốn tên là Trì-thí, năm tên là Già-lăng-già, sáu tên là Chiêm-bà, bảy tên là Câu-la-bà, tám tên là Bác-đồ-la, chín tên là Di-tư-la, mười tên là Thanh Ma.
“Giòng Vua Già-nậu-thô có năm vị Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Đa-la-bà có năm vị Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua A-diệp-ma có bảy vị Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Trì-thí có bảy vị vua Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Già-lăng-già có chín vị vua Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Chiêm-bà có mười bốn vị Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Câu-la-bà có ba mươi mốt vị Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Bát-xà-la có ba mươi-hai vị Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Di-tư-la có tám vạn bốn nghìn vị Chuyển Luân Thánh vương. Giòng vua Thanh Ma có một trăm lẻ một vị Chuyển Luân Thánh vương. Và vị vua cuối cùng có tên là Đại Thiện Sanh Tùng.
“Vua Thanh Ma[445] của giòng thứ mười có vương tử tên là Ô-la-bà. Vua Ô-la-bà có vương tử tên là Cừ-la-bà. Vua Cừ-la-bà có vương tử tên là Ni-cầu-la. Vua Ni-cầu-la [149b] có vương tử tên là Sư Tử Giáp. Vua Sư tử Giáp có vương tử tên là Bạch Tịnh vương[446]. Vua Bạch Tịnh vương có vương tử tên là Bồ-tát[447]. Bồ-tát có con tên là La-hầu-la. Do bản duyên này mà có tên gọi Sát-lị[448].
“Bấy giờ, có một chúng sanh suy nghĩ như vầy: ‘Tất cả mọi sở hữu như gia đình, quyến thuộc, muôn vật ở thế gian đều là gai nhọn, ung nhọt, nay nên lìa bỏ, vào núi hành đạo, ở nơi vắng vẻ mà tư duy.’ Rồi thì, người ấy liền lìa bỏ gai nhọn là gia đình, vào núi, ở nơi vắng vẻ, ngồi dưới gốc cây mà tư duy, hằng ngày ra khỏi núi, vào thôn xóm mà khất thực. Mọi người trong thôn thấy vậy, càng cung kính cúng dường. Mọi người đều cùng khen ngợi rằng: ‘Người này có thể lìa bỏ hệ lụy của gia đình để vào núi tỳm đạo.’ Vì người này có thể xa lìa được pháp ác bất thiện, nên nhân đó mà gọi là Bà-la-môn[449].
“Trong chúng Bà-la-môn có người không hành Thiền được, nên ra khỏi rừng núi, du hành trong nhơn gian, và tự nói: ‘Ta không thể tọa thiền.’ Nhân đó gọi là Vô thiền Bà-la-môn[450]. Rồi đi qua các thôn xóm, nó làm pháp bất thiện, thi hành pháp độc, nhân đó tương sinh, nên được gọi đó là độc[451]. Do nhân duyên này mà có chủng tánh Bà-la-môn ở thế gian.
“Trong chúng sanh kia, chúng học tập các thứ nghề để tự mưu sống, nhân đây nên có chủng tánh Cư sĩ ở thế gian.
“Trong chúng sanh kia, chúng học tập các kỹ nghệ để tự nuôi sống, nhân đây mới có chủng tánh Thủ-đà-la ở thế gian.
“Trước đó trong thế gian đã có giòng họ Thích này xuất hiện rồi, sau đó mới có giòng Sa-môn. Trong giòng Sát-lị có người tự tư duy: ‘Thế gian ân ái là ô uế, bất tịnh, đáng gì mà tham đắm?’ Rồi người ấy lìa bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục mà cầu đạo và nói: ‘Ta là Sa-môn! Ta là Sa-môn!’
“Trong chủng tánh Bà-la-môn, chủng tánh Cư sĩ, chủng tánh Thủ-đà-la, có người suy nghĩ: ‘Thế gian ân ái là ô uế, bất tịnh, đáng gì mà tham đắm?’ Rồi người ấy lìa bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục mà cầu đạo và nói: ‘Ta là Sa-môn! Ta là Sa-môn!
“Nếu trong chúng Sát-lị, có người thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện; sau khi hành bất thiện rồi, thân hoại mạng chung nhất định sẽ phải thọ khổ. Hoặc có Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la thân hành bất thiện, khẩu hành bất thiện, ý hành bất thiện; sau khi hành bất thiện rồi, thân hoại mạng chung nhất định sẽ phải thọ khổ.
“Chủng tánh Sát-lị thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, khi thân hoại mạng chung nhất định sẽ thọ lạc. Bà-la-môn, cư sĩ, thủ-đà-la thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện, khi thân hoại mạng chung nhất định sẽ được [149c] thọ lạc.
“Thân của người sát lợi thân có hai loại hành, miệng và ý cũng có hai loại hành. Sau khi thân, miệng, và ý đã hành hai loại ấy rồi, thân hoại mạng chung nhất định sẽ thọ báo hoặc khổ hoặc lạc. Bà-la-môn, cư sĩ, thủ-đà-la, thân, miệng, ý có hai loại hành. Sau khi thân, miệng, và ý đã hành hai loại này rồi, thân hoại mạng chung chắc chắn sẽ thọ báo hoặc khổ hoặc vui.
“Trong chúng Sát-lị, như có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia cầu đạo. Vị ấy tu tập bảy giác ý. Với tín tâm kiên cố vị ấyï xuất gia hành đạo, tu phạm hạnh vô thượng, ngay trong đời này, tự thân tác chứng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’
“Ở trong chúng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la, có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia cầu đạo. Vị ấy tu tập bảy giác ý. Vị ấy do lòng tin kiên cố mà xuất gia hành đạo, tu phạm hạnh vô thượng, ở ngay trong đời này mà tự thân tác chứng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’
“Trong bốn chủng tánh này, đều có thể thành tựu minh và hành, chứng đắc A-la-hán, là đệ nhất tối thượng.”
Bấy giờ, Phạm thiên liền nói kệ:
Thọ sanh, Sát-lị nhất,
Hay tập các chủng tánh.
Minh-hành thành đầy đủ,
Là nhất trong Trời-Người.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Phạm thiên kia nói bài kệ này rất hay, chứ không phải không hay; là khéo lãnh thọ, chứ không phải không khéo lãnh thọ, được Ta ấn chứng. Vì sao? Vì Ta nay, là Như Lai, Chí Chân, là Đẳng Chánh Giác, cũng nói như bài kệ này.
Sát lợi, sanh là nhất,
Hay tập các chủng tánh,
Minh-hành thành đầy đủ,
Là nhất trong Trời-Người.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ thực hành.
Trường A hàm hoàn tất.
Quy mạng Nhất thiết trí.
Tất cả chúng an vui.
Chúng sanh trú vô vi,
Tôi cũng ở trong đó.[452]
| Trang trước | Mục lục |
[1] Câu-lị quật 俱利窟, tên một am cốc trong vườn Cấp Cô Độc; kinh số 1 “Đại bản” dịch là Hoa lâm khốt 華林窟. Pl.: Karerikuṭikā. Trong bản Hán, Kuṭikā, am cốc nhỏ, được hiểu là hang động (Pl.: guhā)
[2] Tứ thiên hạ, hay tứ châu thiên hạ 四州天下, chỉ bốn đại lục nằm chung quanh núi Tu-di. Pl.: cattaro dīpā.
[3] Tu-di sơn vương 須彌山王; Pl.: Sumeru-pabbata-rājā.
[4] Kim sí điểu 金翅鳥, Pl.: garuḷā hay garuḍā.
[5] Ác đạo 惡 道, chỉ các định hướng tái sinh xấu ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Pl.: duggati.
[6] Trong bản, đại nê-lê 大泥梨; Pl.: mahāniraya hay mahāniraka.
[7] Diêm-la vương 閻羅王, gọi tắt là Diêm vương, vua địa ngục. Pl.: Yama.
[8] Tứ thiên vương thiên 四天王天, tầng thấp nhất trong 6 tầng trời Dục giới. Pl.: Cātumahārājikā Devā hay Cātummahārājikā Devā..
[9] Đao-lị thiên 忉 利天, dịch là Tam Thập Tam thiên 三十三天, cõi của 33 vị trời. Tầng thứ 2, Dục giới thiên. Pl.: Tāvatiṃsa
[10] Diệm-ma thiên 焰摩天, tầng thứ ba trong Dục giới. Pl.: Yāmā devā.
[11] Đâu-suất thiên 兜率天, tầng thứ tư trong 6 tầng trời Dục giới. Pl.: Tusitā devā.
[12] Hóa Tự Tại thiên 化 自 在 天, hay Hóa Lạc thiên 化 樂 天, tầng thứ 5 trong 6 tầng Dục giới thiên. Pl.: Nimmānaratī devā. Skt. Nirmāṇarati.
[13] Tha Hóa Tự Tại 他化自在天, tầng thứ 6 trong 6 tầng Dục giới thiên. Pl.: Para-nimmita-vasa-vattino.
[14] Phạm thiên 梵天, Brahma-devā.
[15] Tiểu thiên thế giới 小 世界, ngàn thế giới số nhỏ. Pl.: sahassadhā lokadhātu.
[16] Trung thiên thế giới 中千世界; ngàn thế giới số trung. Pl.: dvisahassī majjhimikā lokadhātu hay sahassa majjhimakā lokadhātu.
[17] Tam thiên Đại thiên thế giới 三千大千世界, ba ngàn thế giới số lớn. Pali: ti-sahassī mahāsahassī lokadhātu.
[18] Phật-sát 佛 剎, quốc độ Phật. Pl.: Buddhakhetta.
[19] Do-tuần 由旬, đơn vị đo đường dài. Skt. = Pl.: yojana; 1 yojana= 4 hay 8 krośa (câu-lô-xá), khoảng 7 hay 8 dặm Anh.
[20] Câu xá 11 (tr. 59b26): Núi Tô-mê-lô (Skt. Sumeru) có bốn tầng bậc (Skt. pariṣaṇḍāś catasro, Hán: tầng cấp 層級).
[21] Hán: lan thuẫn 闌楯, lan can, với thanh gỗ ngang để vịn tay gọi là lan; thanh gỗ đứng gọi là thuẫn; Pl., Skt. vedikā.
[22] Hán: quán 觀, chỉ nhà dựng trên đài cao. Đây chỉ chung các loại nhà sàn, nhà tầng kiểu Ấn độ.
[23] Hán: viên quán 園觀, chỉ công viên; thường đẻ dịch từ ārāma (pl.=Skt.): lạc viên, công viên, nơi mọi người đến giải trí.
[24] Hán; cấp giai đạo 級階道, đương đi có thềm cấp.
[25] Già-lâu-la Túc 伽樓羅足, nghĩa đen: chân của Già-lâu la. Câu xá 11 (tr. 59c2): có thần Dược-xoa tên là, Kiên Thủ 堅 手 (bàn tay cứng; Skt. Karoṭapāṇi) .
[26] Trì Man 持 鬘; Câu xá 11 (tr. 59c3; Skt.Mālādhara).
[27] Hỷ lạc 喜 樂; Câu xá 11 (tr. 59c3): Hằng kiêu 恆 憍 (Skt. Sadāmatta).
[28] Tam Thập Tam thiên 三十三天, tức Đao-lị thiên 忉利天 (Pl.: Tāvatiṃsa). Cf. Câu xá 11 (tr. 59c19).
[29] Phạm-gia-di 梵加夷, Skt.= Pl.: Brahmakāyika, tầng thấp nhất trong 3 tầng sơ thiền. Câu-xá 11 (tr. 61a23): Phạm chúng thiên 梵眾天.
[30] Ma thiên 魔天, trong trời Tha Hóa Tự Tại (Pl.: Paranimmitavasavatta) có một số Chư Thiên gọi là Ma thiên (Pl.: devaputtamāra). Đại trí độ 56 (tr. 458b9); Sớ giải MA i. 33: so kuhiṃ vasavati? paranimmitavasavattidevaloke. (Thiêm ma Ba-tuần, Pāpiman) ở đâu? Nó ở trong cõi trời Tha Hóa Tự Tại.
[31] Quang âm thiên 光音天. Câu-xá 8 (tr. 41a18): Cực Quang Tịnh thiên 極光淨天. Skt.Ābhāsvarā, Pl.: Ābhassara.
[32] Biến tịnh thiên 遍淨天, tầng thứ ba thuộc Sắc giới tam thiền thiên. Skt. Śubhākṛtsnā; Pl.: Subha-kiṇṇā.
[33] Quả Thật thiên 果實天. Câu-xá 8 (tr. 41a20): Quảng Quả thiên 廣果天, tầng thứ ba thuộc Sắc giới tứ thiền thiên. Skt. Bṛhatphalā; Pl.: Vehapphalā devā.
[34] Vô Tưởng thiên 無想天, một hạng Chư Thiên đặc biệt trong Quảng Quả thiên, hay được xếp bên trên Quảng Quả thiên. Pl.: Asaññā-sattā devā.
[35] Vô Tạo thiên 無 造 天; Câu-xá 8 (tr. 41a20): Vô Phiền thiên 無煩天; Pl.: Avihā devā; Skt. Abṛha; tầng thứ tư thuộc Sắc giới tứ thiền; một trong 5 Tịnh Cư thiên (Skt. Śuddhāvāsika; Pl.: Suddhāvāsa)
[36] Vô Nhiệt thiên 無熱天, tầng thứ tư, Sắc giới tứ thiền, một trong 5 Tịnh Cư thiên. Skt., Pl.: Atapā.
[37] Thiện hiện thiên 善現天, tầng thứ 6 Sắc giới tứ thiền, một trong 5 Tịnh Cư; 天. Skt. Sudṛśa, Pl.: Sudassī devā.
[38] ĐạI thiện Hiện 大善現; Câu-xá 8 (tr. 41a21): Thiện Kiến thiên 善 見 天, tầng thứ 7 Sắc giới tứ thiền, một trong 5 Tịnh Cư. Skt. Sudarśanā, Pl.: Sudassanā.
[39] Sắc Cứu Cánh 色究竟, phiên âm A-ca-nị-trá thiên 阿迦尼吒天, tầng cao nhất của Sắc giới. Skt. Akaniṣṭhā; Pl.: Akaniṭṭāa.
[40] Không Xứ Trí thiên 空處智天;Câu-xá 8 (tr. 41a28): Không Vô Biên Xứ thiên 空無邊處 天. Skt. Ākāśanantāyatana, Pl.: Ākāsānañcāyatanūpagā devā.
[41] Tthức Xứ Trí thiên 識處智 天, Cau-xá ibid.: Thức Vô Biên Xứ thiên 識無邊處天. Skt. Vijñāṇāntāyatana; Pl.: Viññāṇañcāyatanūpagā.
[42] Vô Sở Hữu Trí thiên 無所有智天; Câu-xá ibid.: Vô Sở Hữu Xứ thiên 無所有處天. Skt. Ākiñcanayayātana; Pl.: Ākiñcaññāyatanūpagā.
[43] Hữu Tưởng Vô Tưởng Xứ Trí 有想無想處智, Câu-xá ibid.: Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thiên 非 想 非 非 想 處 天. Skt. Naivasaṃjñāsaṃjñāyatana; Pl.: Nevasaññāsaññāyatanūpagā.
[44] Uất-đan-viết (việt) 鬱單曰(越); Câu-xá 11:(tr. 58a6) Bắc Câu-lô châu 北俱(拘)盧州. Skt., Pl.: Uttara-kuru.
[45] Phất-vu-đãi 沸予逮, hoặc Đông-tỳ-đề-ha 東毗提訶, Câu-xá ibid.: Đông Thắng thân châu 東勝身州. Skt. Pūrva-videha; Pl.: Pubba-videha.
[46] Câu-da-ni 俱耶尼, hoặc Cù-đà-ni-da 瞿 陀 尼 耶, Câu-xá ibid.: Tây Ngưu hoá châu 西牛貨州. Skt., Pl.: Godānīya.
[47] Diêm-phù-đề 閻浮提, Câu-xá ibid: Nam Thiệm-bộ châu 南贍部州. Skt. Jambudvīpa, Pl.: Jambudīpa.
[48] Am-bà-la 菴婆羅.
[49] Gia-lam-phù 加藍浮.
[50] Cân-đề 斤提.
[51] Thạch ngưu tràng 石牛幢.
[52] Diêm-phù 閻浮.
[53] Câu-lợi (lị)-thiểm-bà-la 俱利晱婆羅.
[54] Thiện trú 善晝; Pl.: cittapāṇali ?
[55] Trú độ (đạc) 晝度, Câu-xá 11 (tr. 59c18): Viên sanh thọ 圓生樹; Skt. pārijātaka (hoặc pāriyātra); Pl.: pāricchattaka.
[56] Già-đà-la 伽陀羅, đoạn dưới nói là Khư-đà-la. Có lẽ lẫn tự dạng khư 佉 với già 伽. Câu-xá: Du-kiện-đạt-la 踰健達羅. Skt., Pl.: Yugandhara.
[57] Ưu-bát-la 優缽羅, Skt. utpala, Pl.: uppala; Bát-đầu ma 缽頭摩, Skt. padma, Pl.: paduma; câu-vật-đầu 拘物頭, Skt. kumuda; phân-đà-lị 分陀利, Skt., Pl.: puṇḍarīkā.
[58] Khư-đà-la 佉陀羅, ở trên nói là Già-đà-la. Có lẽ do lẫn lộn tự dạng. Xem cht. 55.
[59] Y-sa-đà-la 伊娑陀羅, Huyền Tráng: Y-sa-đà-la 伊沙馱羅 Skt. Īṣādhara, Pl.: Īsadhara.
[60] Thọ-Cự-đà-la 樹巨陀羅, Huyền Tráng: Kiết-địa-lạc-ca 羯地洛迦. Skt. Khadiraka, Pl.: Karavīka.
[61] Thiện kiến 善見; Huyền Tráng: Tô-đạt-lê-xá-na 蘇達梨舍那. Skt. Sudarśana, Pl.: Sudassana.
[62] Mã thực 馬食; Huyền Tráng: A-thấp-phược-kiết-noa 阿濕縛羯駑. Skt. Aśvakarṇa, Assakaṇṇa.
[63] Ni-dân-đà-la 尼民陀羅; Câu-xá-đạt-la 尼民達羅. Skt. Nimindhara, Pl.: Nemindhara.
[64] Điều phục 調伏. Câu-xá: Tỳ-đát-ca 毗 那怛迦; Skt., Pl.: Vinataka.
[65] Kim Cang Vi 金 剛 圍, đoạn dưới ghi là Đại kim cang. Huyền Tráng: Thiết luân vi 鐵 輪 圍. Skt. Cakravāa Pl.: Cakkavāḷa.
[66] Đoạn trên nói là Kim Cang Vi.
[67] Đại thọ vương Diêm-phù 大樹王閻浮, Câu-xá: Thiệm-bộ lâm thọ 贍部林樹. Skt., Pl.: Jambu.
[68] Am-bà-la-lâm 菴婆羅林.
[69] Diêm-bà 閻婆.
[70] Sa-la 娑 羅, các bản khác: Bà-la 婆羅.
[71] Đa-la 多 羅.
[72] Na-đa-la 那多羅.
[73] Nam 男.
[74] Nữ 女.
[75] Tán-na 散 那.
[76] Chiên-đàn 旃 檀.
[77] Khư-châu-la 佉 詶 羅.
[78] Ba-nại-bà-la 波 奈 婆 羅.
[79] Tỳ-la 毗 羅.
[80] Hương Nại 香 奈.
[81] Lê 梨.
[82] An-thạch-lưu 安 石 留.
[83] Cam 甘.
[84] Ha-lê-lặc 呵 梨 勒.
[85] Tỳ-hê-lặc 毗 醯 勒 .
[86] A-ma-lặc 阿 摩 勒.
[87] Am-ma-lê 阿 摩 犁.
[88] Nại 奈.
[89] Cam Giá 甘 蔗.
[90] Vi 葦.
[91] Trúc 竹.
[92] Xá-la 舍 羅.
[93] Xá-la-nghiệp 舍 羅 業.
[94] Mộc Qua 木 瓜.
[95] Đại mộc qua 大 木 瓜.
[96] Giải thoát hoa 解 脫 花.
[97] Chiêm-bà 瞻 婆.
[98] Bà-la-la 婆 羅 羅.
[99] Tu-ma-na 修 摩 那 .
[100] Bà-sư 婆 師.
[101] Đa-la-lê 多 羅 梨.
[102] Già-da 伽 耶.
[103] Bồ-đào 莆 萄; Tống-Nguyên: 蒲 桃; Minh: 蒲 萄.
[104] Độc xà 毒蛇, tên một loại hoa?
[105] Uất-thiền-na 鬱 禪 那.
[106] Kim Bích 金 壁.
[107] Tuyết sơn 雪 山; Skt. Himavat, Pl.: Himavā hay Himavanta, tức Himalaya.
[108] A-nậu-đạt 阿耨達; Câu-xá: Vô Nhiệt trì 無熱池 Skt. Anavatapta, Pl.: Anotatta.
[109] Đa-la thọ 多 羅 樹.
[110] Hằng-già 恆 伽; Huyền Tráng: Căng-già 殑 伽. Skt. Gaṅgā
[111] Ngưu khẩu 牛口.
[112] Tân-đầu 新 頭; Huyền Tráng: Tín-độ 信 度. Skt. Sindhu
[113] Sư tử khẩu 師子口.
[114] Bà-xoa 婆叉; Huyền Tráng: Phược-sô 縛芻. Skt. Vakṣu
[115] Mã khẩu 馬口.
[116] Tư-đà 斯 陀; Huyền Tráng: Tỉ-đa 徙 多. Sītā.
[117] Tượng khẩu 象口.
[118] Ngũ trụ đường 五柱堂.
[119] A-nậu-đạt long vương 阿 耨 達 龍 王.
[120] Tỳ-xa-li 毗 舍 離; Skt. Vaiśāli, Pl.: Vesāli.
[121] Hắc sơn 黑 山. Skt. Kīṭādri, núi con kiến; Chân Đế: Nghị sơn 蟻 山.
[122] Hương sơn 香山; Câu-xá: Hương Tuý sơn 香醉山. Skt. Gandhamādana.
[123] Truyền thuyết Pl., trong núi Gandhamādana có ba hang: Suvaṭṭa-gūha (hang vàng), Maṭi-gūha (hang ngọc), Rajata-gūha (hang bạc).
[124] Trú 晝 (hang Ban ngày).
[125] Thiện Trú 善 晝.
[126] Diệu Âm Càn-thát-bà vương 妙 音 乾 闥 婆 王, thủ lãnh thần âm nhạc.
[127] Thiện trụ ta-la thọ vương 善 住 娑 羅 樹 王.
[128] Thiện trụ tượng vương 善 住 象 王
[129] Thất xứ bình trụ 七 處 平 住. Bảy chỗ: lòng 2 bàn chân, 2 bàn tay, 2 vai và chỏm đầu.
[130] Ma-đà-diên 摩 陀 延.
[131]* 佛說長阿含第四分世記經鬱單曰品第二
[132] Khổng thúy sắc 孔 翠 色
[133] Bà-sư, tức bà-sư-ca 婆師迦; Skt. vāsikā, một loại hoa lài.
[134] Bi minh 悲鳴.
[135] Diệm-quang 焰 光.
[136] Khúc-cung 曲 躬.
[137] Hương thọ 香 樹.
[138] Y thọ 衣 樹.
[139] Trang nghiêm thọ 莊 嚴 樹.
[140] Hoa man thọ 花 鬘 樹.
[141] Khí thọ 器 樹.
[142] Quả thọ 果 樹.
[143] NHạC khí thọ 樂 器 樹.
[144] Thiện kiến trì 善 見 池.
[145] Am-bà-la thọ 菴 婆 羅 樹.
[146] Thiện đạo hà 善 道 河.
[147] Diệu Thể hà 妙 體 河.
[148] Diệu Vị hà 妙 味 河.
[149] Quang Ẩnh hà 光 影 河.
[150] Thiện Kiến viên lâm 善見園林.
[151] Ngu Lạc 娛 樂.
[152] Đẳng Hoa 等 花.
[153] Ưu-úy thiền-già 憂 畏 禪 伽.
[154] Do từ uttara: trên hết.
[155] *佛說長阿含第四分世記經轉輪聖王品第三
[156] Chuyển luân Thánh vương; Skt. Cakravarti(-rājan); Pl.: (rāja) cakkavattin. Hán, các phiên âm: Chước-ca-la-phạt-lạt-để 斫迦羅伐剌底, Chước-ca-la-phạt-lạt-để 斫迦羅伐辣 底, Chước-ca-ra-bạt-để 斫迦羅跋底, Già-ca-la-bạt-đế 遮迦羅跋帝; dịch nghĩa: Chuyển Luân vương 轉輪王, Chuyển Luân Thánh đế 轉 輪 聖 帝, Phi Hành Luân đế 飛 行 輪 帝, Phi Hành Hoàng đế 飛 行 皇 帝. Các tư liệu khác liên quan Chuyển Luân vương, Hán: Trung A-hàm, quyển 13, 15; Tăng nhất A-hàm quyển 13, 33; Phật bản hành tập kinh 1-15; Hiền ngu kinh quyển, 13; Đại tỳ bà sa quyển 150, 183; Đại trí độ quyển 4, 24, 82. Tài liệu Pl.: các kinh thuộc Dīgha-Nikāya: Mahāsudassana, Mahāpadāna, Cakkacattisīhanāda, Ambaiha, và thuộc Majjhima- Nikāya: Bālapaṇḍita.
[157] Thành tựu thất bảo 成就七寶, Pl.: sattaratanasamannāgato: kim luân bảo 金輪寶, bạch tượng bảo 白象寶, cám mã bảo 紺馬寶, thần châu bảo 神珠寶, ngọc nữ bảo 玉女寶, cư sĩ bảo 居士寶, chủ binh bảo 主兵寶. Tham chiếu Pl. (D. iii. 59): tass’imāni satta ratanāni ahesuṃ, seyyathīdaṃ cakka-ratanaṃ, hatthi-rata-naṃ, assa-ratanaṃ, maṇi-ratanaṃ, itthi-ratanaṃ, gahapati-ratanaṃ, pariṇaïyaka-ratanam eva sattamaṃ.
[158] Nguyên Hán: Sát-lị (lợi) thủy nhiểu đầu chủng 剎利水澆頭 , vua Sát-lợi được truyền ngôi bằng phép quán đỉnh (rưới nước lên đầu). Pl.: khattiya-abhiseka-rāja.
[159] Thiên luân bảo 天輪 , Pl.: dibba-cakka-ratana.
[160]. Hải biểu 海 表; Pl.: sāgara-pariyanta.
[161]. Phong họa đồ độ 封畫圖 度; No 24 (tr. 318a): qui độ vi giới phận 規度為界分.
[162] Hán: lan thuẫn 欄楯, tức câu lan 勾欄, hay lan can 欄杆. Pl.: vedikā.
[163] Bạch tượng bảo thành tựu 白象寶成就; Pl.: (seta-)hatthi-ratanasamannāgata.
[164] Thất xứ bình trụ 七處平住, cũng nói là thất xứ bình mãn 七處平滿, chỉ thịt nơi hai bàn tay, hai bàn chân, hai vai và cổ đầy đặn, gồ lên cao. Skt. saptotsada; Pl.: sattussada.
[165] Cám mã bảo thành tựu 紺寶馬成就; Pl.: (nīla-)assaratanasamannāgata. Cám 紺, hay cám thanh 紺青, màu xanh thẩm, xanh pha đỏ. Pl., Skt.: nīla.
[166] Chu tông vĩ 朱騣尾; các bản TNM: châu mao vĩ 珠毛尾: đuôi có lông (màu) hạt châu.
[167] Thần châu bảo thành tựu 神珠寶成就; Pl.: maṇiratanasamannāgata.
[168] Chất sắc 質色; các bản TNM: kỳ sắc 其色.
[169] Ngọc nữ bảo thành tựu 玉女寶成就; Pl.: itthiratanasamannāgata.
[170] Cư sĩ bảo thành tựu 居士寶成就 ; Pl.: gahapatiratanasamannāgata.
[171] Cư sĩ trượng phu 居士丈夫; Skt. gṛhapati(mauṣya). Pl.: gahapati.
[172]. Phục tạng 伏 藏; Pl.: ākara.
[173]. Chủ binh bảo thành tựu 主 兵 寶 成 就; Pl.: pariṇāyaka-ratana-samannāgata.
[174] Tứ thần đức 四神德; Pl.: catu-iddhisamannāgata, thành tựu bốn năng lực (phồn vinh) siêu tự nhiên.
[175] Bà-sư hay bà-sư-ca 婆師迦; Pl.: vassika hay vessika (Skt. vārṣika), hoa mùa mưa hay mùa hè (hạ sanh hoa 夏生花)
[176] Tự nhiên canh mễ 自然粳米; Pl.: aṭṭhapākasāli, loại lúa thơm mọc, vàng chín tự nhiên, không cần cày cấy. Xem kinh 5 “Tiểu duyên”.
[177] Hán: nê hoàn 泥 洹; cùng tự dạng với nê-hoàn 泥 洹, không nhầm với phiên âm khác của Niết-bàn.
[178] Thời do như lạc nhân, thực như tiểu quá, thân tiểu bất thích 時猶如樂人食如小過身小不適 ; nghĩa không rõ ràng. Cf. No 24 (tr. 375a29): “Như có một người mà thân thể mảnh khảnh, yếu ớt, khi ăn nhiều thức ăn ngon, nếu có vận động chút xíu gì, chỉ thấy hơi mệt. Nhưng giây lát thì tiêu hóa hết.”
[179] Hán: xà(đồ)-duy 闍維; Pl.: jhāpeti, hỏa táng, ta quen gọi là trà-trì 荼-毗.
[180] Bản Hán, hết quyển 18.
* 第四分世記經地獄品第四
[181] Xem cht. 64, 65 phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[182] Địa ngục 地 獄, Skt. naraka, hay niraya, Câu-xá, âm: nại-lạc-ca 奈 落 迦, hoặc nơi khác âm: nê-lê 泥 梨. Pl.: niraya. Thứ tự trong bản Hán này ngược với thứ tự trong Câu xá 1, và trong các tài liệu Pl..
[183] Tưởng 想; Câu-xá: Đẳng hoạt 等 活; Skt., Pl.: Saṃjīva. Bản Hán đọc Skt. lā Saṃjñī(va), hoặc Pl.: Saññnī(va)
[184] Hắc thằng 黑 繩; Skt. Kālasūtra, Pl.: Kālasutta.
[185] Đôi áp 堆 壓; Câu-xá: Chúng hợp 眾 合; Skt. Saṃghāta, Pl. đồng. Bản Hán đọc Skt. lā Saṃkata.
[186] Khiếu hoán 叫 喚; Câu-xá: Hào khiếu 號 叫; Skt. Raurava, Pl.: Jālaroruva.
[187] Đại khiếu hoán 大 叫 喚; Câu-xá: Đại khiếu 大 叫; Skt. Mahāraurava; Pl.: Dhūmaroruva.
[188] Thiêu chích 燒 炙; Câu-xá: Viêm nhiệt 炎 熱; Skt. Tapana, Pl. đồng.
[189] Đại thiêu chích 大 燒 炙; Câu-xá: Cực nhiệt 極 熱; Skt. Pratāpana; Pl.: Patāpana.
[190] Vô gián 無 間; Câu-xá, phiên âm: A-tỳ-chỉ 阿 毗 旨; Skt. Avīci, Pl.: Mahāvici.
[191] Thập lục tiểu ngục 十 六 小 獄; Câu-xá: thập lục tăng 十 六 增. Danh sách theo bản Hán: Hắc sa 黑 沙 (cát đen), Phất (Phí) thỉ 沸 屎 (phân sôi), Ngũ bách đinh (năm trăm đinh) 五 百 釘, Cơ (đói) 飢, Khát 渴, Đồng phủ 銅 釜 (nồi đồng), Đa đồng phủ 多 銅 釜 (nhiều nồi đồng), Thạch ma 石 磨 (mài bằng đá), Nùng huyết 膿 血 (máu mũ), Lượng hỏa 量 火 (đống lửa), Hôi hà 灰 河 (sông tro), Thiết hoàn 鐵 丸 (hòn sắt), Cân phủ 釿 斧 (búa rìu), Sài lang 豺 狼 (chó sói), Kiếm thọ 劍 樹 (rừng cây bằng gươm), Hàn băng 寒 冰 (băng lạnh). Câu xá luận 11 (Kośa-kārikā iii 59): ngoài 4 cửa ngục lớn, mỗi cửûa có 4 ngục nhỏ, danh sách, Huyền Tráng: Đường ôi 煻 煨 (Skt. Kukūla), Thi phẩn 屍 糞 (Skt. Kuṇapa), Phong nhẫn 鋒 刃 (Skt. Kṣura), Liệt hà (Skt. Vaitaraṇī). Trong đó, Phong nhẫn có ba: Đao nhẫn lộ 刀 刃 路 (Skt. Kṣuramārga, hay Kṣuradhārāmārga), Kiếm diệp lâm 劍 葉 林 (Skt. Asipattravana) Kiếm thích lâm 劍 刺 林 (Skt. Ayahśalmalīvana).
[192] Tưởng địa ngục 想地獄. No 23: Tưởng nê-lê 想泥犁. No 24, No 25: Hoạt đại địa ngục 活大地獄.
[193] Định nghĩa của Câu xá 11: Đẳng hoạt (Saṃjīva), chúng sanh trong đó bị hành hạ cho đến chết, sau đó có ngọn gió mát thổi qua, chúng sống lại để tiếp tục chịu hình phạt.
[194] Tự nhiên đao kiếm 自然刀劍. No 23: tự nhiên tiểu đao 自然小刀..
[195] Du ảnh đao 油 影刀 (?).Các loại dao kể trong No 25: thiết đao tử 鐵刀子, bán thiết đao tử 半鐵刀子
[196] Hắc sa địa ngục 黑沙地獄. No 23: Hắc giới 黑界. No 24, No 25: Hắc vân sa tiểu địa ngục 黑雲沙小地獄.
[197] Phất thỉ địa ngục 沸屎地獄. No 24: Nhiệt phẩn thỉ nê tiểu địa ngục熱糞屎
泥小地獄.
[198] Thiết đính 鐵 釘, đinh sắt; trên kia nói là Ngũ bách đinh. No 23: Ngũ bách đinh 五百釘. No 24: Ngũ xoa tiểu đia ngục 五叉
小地獄.
[199] Cơ ngạ địa ngục 飢餓地獄. No 24, No 25: cũng vậy. No 23: từ địa ngục Ngũ bách đinh chạy ra, lại vào địa ngục Xa thiếp 車
[03]怗.
[200] Khát địa ngục 渴地獄. No 23: Ẩm 飲. No 24, No 25: Tiều khát địa ngục 燋渴地獄.
[201] Đồng phúc 銅 鍑; trên kia dịch là Đồng phủ, cùng nghĩa. No 23: Nhất đồng ohủ 一銅釜. Tiếp theo là Đa đồng phủ多銅釜. No 24, không thấy địa ngục tương đương.
[202] Thạch ma địa ngục 石磨地獄. No 23: từ Đa đồng phủ chạy vào địa ngục Ma 磨. No 24, 25 không có tương đương.
[203] Nùng huyết địa ngục 膿血地獄. No 23, No 24, No 25: cũng vậy.
[204] Lượng hỏa địa ngục 量火地獄. No 23: từ ngục Nùng huyết chạy vào địa ngục Cao tuấn 高峻. Từ Cao tuấn chạy vào Chước bản 斫板. Từ Chước bản chạy vào Hộc斛. No 25: từ Nùng huyết chạy vào Nhất đồng phủ 一銅釜, sau đó lại vào Đa đồng phủ 多銅釜, tiếp theo chạy vào Cai điệp 磑疊. Từ Cai điệp, chạy vào Hộc lượng 斛
量. No 24: từ Nung huiýet ra, chạy vào lần lượt: Nhất đồng phủ, Đa đồng phủ, Thiết cai 鐵磑, Hàm lượng 凾量.
[205] Hôi hà địa ngục 灰河地獄. No 23: từ địa ngục Hộc chạy vào Kiếm thọ diệp 劍樹
葉; tiếp theo chạy vào địa ngục Nạo lạo hà 撓撈河. No 24: sau Hàm lượng đến Kê tiểu địa ngục 雞小地獄, rồi chạy vào Hôi hà. No 25: từ Hộc lương chạy vào Kê rồi vào Hôi hà.
[206] Thiết hoàn địa ngục 鐵丸地獄. No 23: từ Nạo lạo hà (Hôi hà) chạy ra lại vào Lang dã can 狼
野[05]干. Tiếp theo là Hàn băng 寒氷. No 24: từ Hôi hà chạy vào Chước triệt 斫截, rồi vào Kiếm diệp 劍葉, lạ vào Sài lang 狐狼. và sau đó, Hàn băng. No 25: từ Hôi hà lần lượt chạy vào Chước bản 斫板, Đao diệp lâm 刀葉林, Hồ lang 狐狼, cuối cùng là Hàn băng.
[207] Cân phủ địa ngục 釿斧地獄.
[208] Sài lang địa ngục 豺狼地獄.
[209] Kiếm thọ địa ngục 劍樹地獄.
[210] Hàn băng địa ngục 寒冰地獄.
[211] No 23: Hắc nhĩ nê-lê 黑耳泥犁. No 24, No 25: Hắc thằng.
[212] No 23: Tăng-càn nê-lê 僧乾泥犁. No 24, No 25: Chúng hiệp 眾合.
[213] No 23: Lâu-lạp nê-lê 樓
獵泥犁. No 24, No 25: Khiếu hoán.
[214] Đại khiếu hoán, các bản đồng.
[215] No 24, No 25: Nhiệt não. 熱惱.
[216] No 23: A-tỳ-ma-ha 阿鼻摩訶. No 24: A-ti-chí 阿毘至. No 25: A-ti-chi 阿毘脂.
[217] Đại thiết vi thành 大鐵圍城.
[218] Tăng-khư 增 佉, trên kia âm là tăng-già 僧 伽. No 24, No 25: gió tên Nhiệt não 熱惱.
[219] Mười địa ngục: Hậu vân 厚 雲, Vô vân 無 雲, Ha ha 呵 蚵, Nại hà 奈 合, Dương minh 羊 鳴, Tu-càn-đề 須 乾 提, Ưu-bát-la 優 鱚 羅, Câu-vật-đầu 拘 物 頭, Phân-đà-lợi 分 陀 利, Bát-đầu-ma 鱚 頭 摩. So sánh tám ngục lạnh, Câu xá 1 tám địa ngục lạnh: Át-bộ-đà 頞部陀 (Skt. Arbuda), Ni-lạt-bộ-đà 尼剌部陀 (Niratbuda), An-tích-tra頞[口*析]吒(Aṭaṭa) , Hoắc-hoắc-bà 臛臛婆 (Hahava), Hổ-hổ-bà 虎虎婆 (Huhuva), Ốn-bát-la 嗢缽羅 (Utpala), Bát-đặc-ma 缽特摩(Padma). Xem các cht. tiếp theo. Danh sách No 23: A-phù 阿浮, Ni-la-phù 尼羅浮, A-ha-phủ 阿呵不, A-ba-phù 阿波浮, A-la-lưu 阿羅留, Ưu-bát 優鉢, Tu-kiền 修揵, Liên hoa 蓮花, Câu-văn 拘文, Phân-đà-lị 分陀利. No 24: Át-phù-đà 頞浮陀, Nê-la-phù-đà 泥羅浮陀, A-hô 阿呼, Hô-hô-bà 呼呼婆, A-tra-tra 阿吒吒, Tảo-kiền-đè-ca 搔揵提迦, Ưu-bát-la 優鉢羅, Ba-đàu-ma 波頭摩, Bôn-trà-lê 奔茶梨, Câu-vật-đà拘牟陀.
[220] Hậu vân: mây dày; Arbuda (Pl.: Abbuda) ở đây được đọc là ambuda (mây)
[221] Vô vân: không mây; Skt. Nirambuda, thay vì Nirarbuda; xem cht. 19.
[222] Tu-càn-đề 須 乾 提, Skt., Pl.: Sugandha (hoặc Sugandhi).
[223] Câu xá 11:: Lượng một vāha mè (Huyền Tráng: ma-bà-ha) của nước Magadha là 20 khār (Huyền Tráng: khư-lê) đựng đầy mè. Cứ một trăm năm lấy đi một hạt mè. Cho đến khi vāha mè hết nhưng tuổi thọ ở ngục lạnh Arbuda chưa hết. Hai mươi lần tuổi thọ của Arbuda bằng một lần tuổi Nirbuda.
[224] Cù-ba-lê 瞿波梨, Pl.: Kokālika (hoặc Kokāliya). No 99(1193), tr. 323b13: Cù-ca-lê Tỳ kheo 瞿迦梨比丘. Pali, S. i. 149, A. v. 171.
[225] Tài liệu Pl., Kokālika là đệ tử của Tudu. Tỳ-kheo Tudu chứng quả A-na-hàm rồi tái sinh lên thiên giới là vị Pacceka Brahamā (Phạm thiên độc hành). Chính Tudu khuyên Kokālika sám hối vì đã nói xấu hai vị Đại tôn giả. Nhưng Kokālika không chịu, dù phải đọa địa ngục.
[226] Xem kinh “Thiên sứ” No 26(64).
[227] Kim sí điểu 金翅鳥, chim cánh vàng; Pl.: garuḍa
[228] Sa-kiệt Long vương 娑竭龍王, No 24, No 25: Sa-già-la Long vương 娑伽羅龍王. Skt. Sāgara-nāgarājan.
[229] Xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[230] Nan-đà 難陀, Skt., Pl.: Nanda; Bà-nan-đà 婆難陀, Skt., Pl.: Upananda. Hai anh em Long vương. No 23: Nan-đad Hòa-nan-đà Long vương 難頭和難龍王. No 25: nan-đà và Ưu-ba-nan-đà 難陀優波難陀.
[231] Cứu-la-thiểm-ma 究 羅 晱 摩. No 23: Cú-lê-thiểm 句梨睒. No 24, No 25: Cư-tra-xa-ma-li 居吒奢摩離, với phụ chú: nước Tùy gọi là Lộc tụ 鹿聚.
[232] Danh sách các đại long: Sa(Ta)-kiệt-la 娑竭羅 (Skt., Pl.: Sāgara-nāgarājan), Nan-đà 難 陀 (Nanda-nāgarājan), Bạt-nan-đà 跋難陀 (Upananda), Y-na-ba-la 伊那婆羅 (Airāvaṇa)), Đề-đầu-lại-tra 提頭賴吒 (Skt. Dhataraṣṭha Pl.: Dhataraṭṭha), Thiện Kiến 善 見 (Skt. Sudarśana), A-lô 阿盧 (?), Già-câu-la 伽拘羅 (?), Già-tỳ-la 伽毗羅 (Kapila?), A-ba-la 阿波羅 (Abala), Già-nậu 伽耨 (?), Cù-già-nậu 瞿伽耨 (?), A-nậu-đạt 阿耨 (Anavatapta), Thiện Trụ 善住 (Skt. (Supratiṣṭhita)), Ưu-thiểm-già-bà-đầu 優晱伽婆頭 ( ?), Đắc-xoa-già 得叉 伽 (Skt. Takṣaka ). No 23: Sa-kiệt-la 娑竭, A-nậu-đạt 阿耨
達, Nan-đầu Hòa-nan 難頭和難, Thiện Kiến 善見, Đe-đầu-lại-tra 提頭賴, Y-ra-mạc 伊羅[34]募, Thiện Trụ 善
住, Ca-cú 迦[*]句, A-vu-lâu 阿于樓, Uất-chiên-đàn-bát 欝旃鉢, Kiền-ha-cụ-đàm 揵[01]呵具曇, Lam-ba 監波. No 24, No 25: Ma-đa-xa-ca 摩多車迦 , Đức-xoa-ca 德叉迦 , Yế-lặc-noa-kiều-đa đa-ma-già 羯勒拏橋多
摩[01]伽, Xí-bà-đà-phất- tri-lê-gia 熾婆陀弗知梨迦, Thương-cư-ba-đà-ca 商居波
陀迦, Cam-bà-la 甘婆羅, A-thấp-ba 阿濕婆多羅.
[233] Long giới 龍 戒, Pl.: nāga-sīla, nāga-vata.
[234] Thố kiêu giới 兔 梟 戒
[235] Ma-ni-bà-đà 摩 尼 婆 陀; No 23: Ma-ni-việt thiên 摩尼越天. Pl.: Maṇibhadda, tên một dạ-xoa (Yakkha), S. 208.
[236] Khổ hành uế ô pháp 苦 行 穢 汙 法; Pl.: tapajigucchādhamma.
[237] Hán: hữu như thị tha tử 有如是他死. Có lẽ chính xác của câu này được đọc tương đương là: tathā paraṃ maraṇā hoti, thay vì đọc là: tathāgato paraṃ maraṇā hoti: Như Lai tồn tại sau khi chết; paraṃ maraṇā, thay vì hiểu: sau khi chết, ở đây hiểu “tha tử”: cái chết khác”. Trên đây, dịch y theo nghĩa được chấp nhận.
[238] Bản Cao-ly: hành ư 行 於; các bản TNM: ư hành 於 行, đối với (các) hành (mà có những kiến chấp).
[239] Thanh tịnh tụ 清 淨 聚; Pl.: suddha-rāsi (?). No 23: bảy lần qua lại sanh tử, rồi đắc Đạo. No 24: thất tẩu thất hành thành tưu mạng cập nhập mạng tụ 七走七行成就命及入命聚.
[240]. Hán: du hành 遊 行, thường được hiểu là an trú, sống, tồn tại hay lưu ngụ.
[241] Trong bản Hán: mạng 命; có lẽ tử 死 nhưng chép nhầm. Xem cht. 211.
[242] Kính Diện 鏡面; No 23: Bất Hiện Diện 不現面. Pl.: Ādāsamukha, J. ii. 297-310.
[243] Thọ hữu 受有, tức thủ (Pl.: upādāna) và hữu (bhava).
[244] Bản Hán, hết quyển 19.
* 第四分世記經阿須倫品第六
[245] Hán: A-tu-la 阿須倫, đây đọc theo phiên âm thông dụng: A-tu-la 阿 修 羅. Pl. = Skt. Asura
[246] La-ha A-tu-luân 羅呵阿須倫; có lẽ Pl.: Rāhu-asura, A-tu-la gây nguyệt thực. No 23: A-tu-la La-hô 羅呼 (Rāhu) ở phía bắc của Sa-đa-thi-lị. A-tu-luân tên là Sao-đa-thi-lị 抄多尸利 (Sapta-śrī?) ở sâu 40 vạn dăm dưới núi Tu-di. No 24: phía Đông Tu-di có A-tu-la vương là Tỳ-ma-chất-đa-la 鞞摩質多羅阿修
羅王.(Pl.: Vepacitti/ Vemacitra)
[247] Như các mẫu mô tả trong phẩm 1.
[248] Luân-thâu-ma-bạt-đà 輪輸摩跋陀. No 24: Thiết-ma-bà-đế 設摩婆帝.
[249] Thất Thi-lị (lợi)-sa 七尸利沙. No 24: Thất Đầu 七頭. Skt. Sapta-śīrṣa.
[250] Chánh pháp tòa 正法座. No 24: một cột báu 一
寶柱.
[251] Lan thuẫn giai đình 欄楯階亭.
[252] Sa-la viên lâm 娑羅園林. Skt. Sālavana.
[253] Cực diệu viên lâm 極妙園. Cf. No 24: rừng Nan-đà-na 難陀那林 (phía Nam), Skt. Nandana-vana.
[254] Thiểm-ma 晱 摩. No 25: Xa-ma-lê lâm 奢摩梨林 (phía Nam).
[255] Nhạc lâm 樂 林. Cf. No 24: rừng Câu-tỳ-đà-la 俱毘陀羅, ở phía Tây; Skt. Kovidāra.
[256] Trú độ thọ 晝度樹; Pl.: pāricchattaka; Skt. pārijataka. Cf. No 24: khoảng giữa rừng Nan-đà-na (phía Nam) và Câu-tỳ-đà-la (phía Tây) có cây lớn tên Tô-chất-đát-la-ba-tra-la 蘇質怛
邏波吒羅; Skt. Sucitrapatra?
[257] Bạt-nan-đà 跋難陀. No 24: khoảng giữa rừng Sa-la và Xa-ma-lê có ao lớn tên là Nanđà 難陀; Skt. Nandā.
[258] Tỳ-ma-chất-đa A-tu-la 毗摩質多阿須倫. No 24, No 25: Tỳ-ma-chất-đa-la 鞞
摩質多囉 có cung thành ở phía Đông Tu-di. Pl.: Vepacitti Asura, Skt. Vemacitra.
[259] Ba-la-ha A-tu-la 波 羅 呵 阿 須 倫; Pl.: Pahārāda Asura, một trong ba thủ lãnh của Asura. No 23: Ba-đà-ha 波陀呵.
[260] Thiểm-ma A-tu-la 晱 摩 阿 須 倫; Pl.: Sambara Asura.; St. Śambara.
[261] Ngũ đại A-tu-la 五 大 阿 須 倫: Đề Trì 提 持, Hùng Lực 雄 力, Võ Di 武 夷, Đầu Thủ 頭 首, Tồi Phục 摧 伏. No 24, No 25: Tùy Hỷ 隨喜, Thường Hữu 常有, Thường Túy 常醉, Mâu-chân-lân-đà 牟
真隣陀, Tỳ-ha-đa-la 鞞呵多羅.
[262] Tứ phong 四 風: trụ phong 住 風, trì phong 持 風, bất động 不 動 風, kiên cố 堅 固 風. No 23, bốn loại gió: bất khả hoại 不可壞風, kiên trụ 堅住風, trì 持風,thượng
風. No 24, No 25: trụ 住, an trú 安住, bất trụy 不墮, lao cố 牢
固.
* 佛說長阿含第四分世記經四天王品第七
[263] Tứ thiên vương 四天王. Pl.: Cātummmahārājikā.
[264] Đề-đầu-lại-tra 提頭賴吒, Hán dịch: Trì Quốc Pl.: Dhataraṭṭha
[265] Hiền Thượng 賢上.
[266] Tỳ-lâu-lặc 毗樓勒. No 24, No 25: Tỳ-lâu-lặc-ca 毘[08]樓
勒迦. Hán dịch: Tăng Trưởng 增 長; Pl.: Virūḷhaka.
[267] Thiện kiến 善 見; No 24, No 25: Thiện hiện 善現. Pl.: Sudassana, Skt. Sudarśana.
[268] Tỳ-lâu-bà (bác)-xoa 毗 樓 婆 (博) 叉. Hán dịch: Quảng Mục 廣 目. Pl.: Virūpakkha.
[269] Chu (châu)-la Thiện kiến 周 羅 善 見. No 24, No 25: Thiện quán 善觀. Pl.: Cūla- Sudassana.
[270] Tỳ-Sa-môn 毗 沙 門, Hán dịch: Đa Văn 多 聞. Pl.: Vessavaṇa.
[271] Ba thành: Khả úy 可 畏, Thiên kính 天 敬, Chúng quy 眾 歸. No 23: Sa-ma 沙摩, Ba-ca-la-viêt [24]波迦羅曰, A-ni-bàn 阿尼
槃. No 24, No 25: Tỳ-xá-la-bà 毘舍羅
婆, Già-bà-bạt-đế 伽婆鉢帝, A-trà-bàn-đa 阿荼槃多.
[272] Già-tỳ-diên-đầu 伽 毗 延 頭. No 23: Ca-tỉ-diên 迦比延 (tên núi). No 24, No 25: Ca-tỳ-diên-đa 迦毘延多 (tên vườn).
[273] Na-lân-ni 那 鄰 尼. No 23: Na-lị 那
利. No 24: Na-trỉ-ni 那稚尼. No 25: Na-trì-ni 那墀
尼.
[274] Càn-đạp-hòa 乾 沓 和.
[275] Cứu-(cưu)-bàn-trà 究(鳩)盤荼, các thần thuộc hạ của Tỳ-lâu-lặc. Pl.: Kumbaṇḍha.
[276] Ngũ đại quỷ thần 五大鬼神 (Pl.: Pañca mahāyakkhā): Bàn-xà-lâu 盤闍樓, Đàn-đà-la 檀陀羅 (Daṇḍadhāra), Hê-ma-bạt-đà 醯摩跋陀 (Skt. Hemaparvata), Đề-kệ-la 提偈羅, Tu-dật-lộ-ma 修逸路摩 (Skt. Suciloma). No 24: Ngũ Trượng 五
丈, Khoáng Dã 曠野, Kim Sơn 金山, Trường Thân 長身, Châm Mao 針
毛.
* 佛說長阿含第四分世記經忉利天品第八
[277] Đao-lị thiên 忉利天, Hán dịch: Tam Thập Tam thiên. Pl.: Tāvatiṃsa, Skt. Trāyastiṃsa.
[278] Y-la-bát long vương 伊羅 鉢龍王. No 24: Y-la-bát-na đại long tượng vương 伊羅鉢那大
龍象王Pl.: Erakapatta.
[279] Thiện kiến thành 善 見 城. No 23: Tu-đà-diên 須
陀延. Pl.: Sudassana-devanagara; Skt. Sudarśana.
[280] Thiện pháp đường 善 法 唐. No 23: Tham nghị điện xá 參議殿
舍. Pl.: Sudhammā-sālā, Skt. Sudharmā devasabhā.
[281] Thiên đế 天 帝, tức Thiên Đế Thích 天 帝 釋, hay Thích Đề-hoàn Nhân 釋 提 桓 因, chúa tể các thiên thần trời Đao lị (Pl.: Tāvatiṃsa). Pl.: Sakka devānam Inda.
[282] Thô sáp viên lâm 麤 澀 園 林; một trong bốn công viên trên trời Đao lợi. No 23: Thô kiên 麤堅. No 24, No 25: vườn Ba-lũ-sa 波婁沙
苑Câu-xá, bốn khu vườn trên Đao-lị: Chúng xa 眾 車 (Skt. Caitraratha), Thô ác 麤 惡 (Skt. Pāruṣyaka), Tạp lâm 雜 林 (Skt. Miśraka), Hỷ lâm 喜 林 (Nandana).
[283] Hiền 賢, Skt. Bhadra; Thiện hiền 善 賢, Skt. Subhadra.
[284] Họa lạc 畫 樂, Hán dịch từ Skt. Caitrarata, thay vì Skt. Caitraratha mà Huyền Tráng dịch là Chúng xa. Xem cht. 282. No 24, No 25: Tạp sắc xa 雜色車.
[285] Họa 畫, Skt. Caitra ? Thiện họa 善 畫, Skt. Sucaitra ? No 24, No 25: Tạp sắc 雜色, và Thiện tạp sắc 善雜色.
[286] Tạp雜, tức Tạp lâm; xem cht. 282. No 23: Hội loạn viên 憒亂園. No 24, No 25: vườn Tạp loạn 雜亂.
[287] Thiện kiến 善見 và Thuận thiện kiến 順善見 No 24, No 25: Thiện hiện 善現 và Tiểu thiện hiện 小善
現. No 23: Nan 難陀 và Hòa-nan 和難.
[288] Đại hỷ 大喜, tức Hỷ lâm; xem cht. 282.
[289] Nan-đà trì 難 陀 池. Đoạn dưới, dịch nghĩa là Đại hỷ. Pl.: Nandā-pokkharaṇī.
[290] Trú độ 晝度; Pl.: Pāricchattaka, Skt. Pārijātaka. No 23: Trú quá độ 晝過度. No 24, 25: Ba-lị-da-đát-la-câu- tỳ-đà-la 波利夜怛邏俱毗陀羅.
[291] Trên kia, âm là Nan-đà.
[292] Thô sáp 麤 澀, Skt. pāruṣya. Xem cht. 282.
[293] Caitrarati, tên vườn theo bản Hán (Xem cht. 282), do ghép citra, hình dung từ, có màu sắc sặc sỡ; và rati, danh từ, sự vui thích. Những giải thích này gần với từ Pl.: Cittalatā-vana hơn.
[294] Tên vườn Miśraka (Xem cht. 282) do hình dung từ miśra, được pha trộn.
[295] Tên vườn Nandanavana (Xem cht.282) do hình dung từ nandana, làm cho vui vẻ.
[296] Hán: diệu pháp 妙 法, Skt. sudharma, Pl.: sudhamma.
[297] Mạn-đà 漫 陀.
[298] Định nghĩa này gần với từ Pl.: Pāricchattaka, hơn là Skt. Pārijātaka hay Pāriyātra. Do động từ Pl.: pari-cchādeti: che phủ khắp.
[299] Thập đại thiên tử 十 大 天 子, Nhân-đà-la 因 陀 羅, Cù-di 瞿 夷, Tỳ-lâu 毗 樓, Tỳ-lâu-bà-đề 毗 樓 婆 提, Đà-la 陀 羅, Bà-la 婆 羅, Kỳ-bà 耆 婆, Linh-hê-nậu 靈 醯 嵬, Vật-la 物 羅, Nan-đầu 難 頭. No 23: Căn 根, Câu-giới 具戒, Tỉ-lưu 比流, Tỉ-lưu-tàng 比流藏, A-lưu
阿流, ba-lưu 波流, Lị-hằng 利桓, Lâu-hán 樓漢, Câu-hòa-nan 拘和[03]難, Nan 難. No 24, 25: Nhân-đà-la-ca 因陀羅迦, Cù-ba-ca 瞿波迦,。Tần-đầu-ca
頻頭迦, Tần-đầu-bà-ca 頻頭婆迦, A-câu-tra-ca 阿俱吒迦, Tra-đo-đa-ca 吒都多迦, Thì-bà-ca 時婆迦, Hồ-lô-kì-na 胡盧祇那, Nan-trà-ca 難[05]茶迦, Hồ-lô-bà-ca 胡盧婆迦.
[300] Kích thước trung bình khăn quấn của người Ấn.
[301] Hán: đoàn tế hoạt thực 摶 細 滑 食. Pl.: kabaḷikāro āhāro olāriko vā sukhumo. Xem kinh số 9 “Chúng tập.”
[302] Chỉ thực phẩm vật chất: thức ăn được nắn thành viên, do tục ăn bốc của người Ấn.
[303] Tham chiếu, Câu xá 10: đoạn thực 段 食 (Skt. Kavaḍīkāra āhāra; Pl.: kabaḷikāro āhāro) có hai loại: thô (Skt. audārika, Pl.: olāriko) và tế (Skt. sūkṣuma, Pl.: sukhumo): (…) như thức ăn chư Thiên được gọi là tế, vì không phải bài tiết.
[304] Tịnh đoàn thực 淨 摶 食.
[305] Hán: châu ky 珠 璣, chỉ chung cho các kim loại quý làm vật ngang giá.
[306] Man thọ 鬘 樹; xem “Phẩm uất-đan-viết.”
[307] Trai 齋, thường dịch âm là Bồ-tát 布薩 (Skt. Upavasatha hay upoṣaḍha, Pl.: uposatha).
[308] Tính theo tháng 15 ngày. Nếu tính theo tháng 30 ngày thì có tất cả 6 ngày.
[309] Quỷ thần 鬼神. Pl.=Skt. bhūta. Về từ nguyên, từ này chỉ cho tất những gì tồn tại, như trong các đại chủng (mahābhūta). Thứ đến, chỉ tất cả những gì có mầm sống, như cây rỏ, trong từ bhūta-gama mà hán thương dịch là “quỷ thần thôn.” Diễn thêm nữa, nó chỉ các loài chúng sanh, và hạn hẹp hơn, chỉ các loại quỷ thần, các loại u linh.
[310] No 23, 12 hạng ở Dục giới: 1. nê-lê 泥犁, 2. cầm thú [03]禽[04]獸, 3. tiết-lệ
薛荔, 4. người thế gian 世間人. 5. A-tu-luân 阿須倫. 6 Tứ thiên vương 四天[05]
王, 7. Đao-lị 忉利天, Diệm thiên [*]焰天, 9. Đâu-suất 兜率天, 10 Vô cống cao 無貢高天, 11 Tha hóa tự chuyển 他化自轉天, 12. Ma thiên 魔
天. No 24, 25: địa ngục 地獄, súc sanh 畜
生, ngạ quỷ 餓鬼. người 人. A-tu-la 阿修羅, Tứ thiên vương 四天王天, Tam thập tam 三十三天, Dạ-ma
夜摩天, Đâu-suất-đà 兜率陀天, Hóa lạc 化樂天, Tha hóa tự tại 他化自在天, Ma thân thiên 魔
身天等.
[311] No 23, Sắc giới, 18 tầng: 1. Phạm-da-di 梵[06]加夷天, Phậm-bất-số-lâu 梵不數樓天, Phạm-ba-lị-sa 梵
波利沙天, Đại Phạm 大梵天, A-duy-tỉ 阿維比天, Ba-lị-đáp 波利答天, A-ba-la-na 阿波
羅那天, Ba-lị-đa-thủ 波利多首天, A-ba-la 阿波羅天, Ma-thủ-la 摩首天, A-phi-ba-la 阿披
波羅天, Duy-a 維阿天, Ba-lị-đa-uy 波利多維天, A-ba-ma-duy-ha 阿波摩維[07]呵
天, Duy-ha 維呵天, Duy-a-bát 維阿鉢天 , A-đáp-hòa 阿答和天, Thiện kiến 善見天, Sắc thiên
[08]色天, A-ca-ni-tra 阿迦尼吒天. No 24, 25, Sắc giới có 22 tầng: Phận thân 梵身天, Phạm phụ 梵輔天, Phạm chúng 梵眾天, Đại Phạm 大梵天, Qaung thiên 光天, Thiểu quang 少
光天, Vô lượng quang 無量光天, Quang âm 光音天, Biến tịnh 淨天, Thiểu tịnh 少淨天, Vô lượng tịnh 無
量淨天, Biến tịnh 遍淨天. Quảng thiên 廣天, Thiểu quảng 少廣天, Vô lượng quảng 無量廣天, Quảng quả
廣果天, Vô tưởng 無想天, Vô phiiền 無煩天, Vô não 無惱天, Thiện kiến 善見天, Thiện hiện 善
現天. A-ca-nị-tra 阿迦膩吒天 .
[312] No 23, bốn Vô sắc giới thiên: Hư không trí 虛空智天, Thức trí 識
智天, A-kiệt-nhiên 阿竭然天, Vô tư tương diệc hữu tư tưởng 無思想亦有思想
天. No 24, 25: Không vô biên 空無邊天, Thức vô biên 識無邊
天, Vô sở hữu 無所有天, Phi tương phi phi tưởng 非想非非想天.
[313] Bốn loại chớp: thân quang 身 光, ánh sáng của thân; nan hủy 難 毀, khó hủy diệt; lưu diệm 流 焰, ngọn lửa trôi; định minh 定 明, ánh sáng cố định. No 23, phwong Đông, Bách chủ 百主; phương Nam, Thân vị 身味; phương Tây, A-kiệt-la 阿竭羅; phương Bắc, A-chú-lam 阿祝藍. No 24, No 25: phương Đông, Vô hậu [01]無厚; phương Nam, Thuận lưu 順流; phương Tây, Trụy quang minh 墮光明; phương bắc, Bạch thọ sanh 百生樹.
[314] Bản hán, hết quyển 20.
* 第四分世記經三災品第九
[315] Hán: tứ sự 四事 chỉ bốn sự kiện, hay biến cố lớn xảy ra cho thế giới, gọi là bốn đại kiếp 四大劫 (Pl.: cattāro mahākappā): 1. thành kiếp (Pl.: vivaṭṭa-kappa, Skt. vivarta-kalpa), 2. trụ kiếp (Pl.: vivaṭṭaṭṭhāyin, Skt. vivṛṭṭāvasthā), 3. hoại kiếp (Pl.: saṃvaṭṭa-kappa, Skt. saṃvartna-kalpa), 4. không kiếp (Pl.: saṃvaṭṭathāyin, Skt. saṃvṛṭṭāvasathā).
[316] Tam tai 三 災 (Skt. tisro saṃvartanyah): 1. hỏa tai 火 災 (Skt. tejahsaṃvartanī), 2. thủy tai 水 災 (apsaṃvartanī), 3. phong tai 風 災 (vāyusaṃvartanī).
[317] Quang âm thiên 光音天, cao nhất trong ba tầng trời Nhị thiền; Skt. Ābhāsvara, Pl.: Ābhassara, Huyền Tráng: Cực quang tịnh thiên 極 光 淨 天. No 23: A-vệ-hóa-la thiên 阿衛貨羅天.
[318] Biến tịnh thiên 遍 淨 天, cao nhất trong ba tầng Tam thiền thiên; Skt. Śubhakṛtsana, Pl.: Subhakiṇṇa.
[319] Quả thật thiên 果實天, tầng thứ ba Tứ thiền thiên; Skt. Bṛhatphala, Pl.: Vehapphala; C âu-xá: Quảng quả thiên 廣果天.
[320] Thiên đạo 天 道 (Pl.: deva-yāniyo maggo), Phạm đạo 梵 道 (Pl.: Brahma-yāniyo maggo), xem kinh số 24 “Kiên Cố.”
[321] Câu xá luận 12: “Định sanh hỷ lạc, thậm lạc, thậm tĩnh !” 定生喜樂甚樂甚靜.
[322] Hán: đại hắc phong 大 黑 風; Pl.: mahā-kāla-vāta.
[323] Hán: an nhật đạo trung 安 日 道 中.
[324] Quang niệm thiên 光念天, các đoạn trên Hán dịch Quang âm thiên, cho thấy Skt. Ābhāsvara (Pl.: Ābhassara) liên hệ giữa svara: âm thanh, và smara, ký ức.
[325] Kiếp hỏa hoàn phục 劫 火 還 復; nội dung, diễn tả chu kỳ thế giới được tái tạo sau tai kiếp của lửa. Pl.: tejo-vivaṭṭana, Skt. tejo-vivartani.
[326] Tứ đại phong 四大風: trụ phong 住風, trì phong 持風, bất động 不動, kiên cố 堅固.
[327] Tăng già 僧伽. No 23: trụ phong 住風, trợ phong 助
風, bất động phong 不[31]動風, kiên phong 堅風. No 24, 25: trụ 住, an trụ 安住, bất trụy 不墮, lao chủ 牢主.
[328] Xem phẩm 1: Châu-Diêm-phù-đề.
[329] Các bản: Thọ thần đà la 樹 辰 陀 羅; trên kia, Thọ Cự-đà-la 樹 巨 陀 羅. Có lẽ nhầm lẫn tự dạng. Xem cht. 59 phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[330] A-bát-ni-lâu 阿般尼樓, có lẽ trên kia gọi là núi Mã thực 馬 食, Skt. Aśvakarṇa. Xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[331] Ni (để bản: di)-lân-đà-la 尼 (彌) 鄰 陀 羅, trên kia âm là Ni-dân-đà-la 尼 民 陀 羅. Xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[332] Tỳ-ni-đà 毗 尼 陀, ở trên gọi là núi Điều phục 調 伏; xem cht. 63, phẩm 1 Châu Diêm-phù-đề.
[333] Kim cang luân 金 剛 輪, ở trên dịch là Kim cang vi 金 剛 圍. Xem phẩm 1 Châu Diêm-phù-đề.
[334] Hỏa tai 火 災.
[335] Nãi thành vi tai 乃 成 為 災. Trong bản Hán, từ tai 災 và bại 敗 đồng một từ gốc Skt.: saṃvartanī. Tham chiếu, Câu xá 12: Nãi chí khí tận, tổng danh hoại kiếp 乃至器盡總 名 壞 劫.
[336] Tô du 酥油.
[337] Thủy tai 水 災, Skt. apsaṃvartanī.
[338] Hán: hộ niệm thanh tịnh 護念清淨; Pl.: upekkhāsāti parisuddhim.
[339] Tức ba đợt hủy diệt (Skt. saṃvartana), và ba đợt sáng tạo (Skt. vivartana).
[340] Tỳ-ma-chất-đa-la 毗摩質馱羅. No 23: Duy-ma-chất 維摩質. Pl.: Vepacitta, Skt. Vemacitra; xem phẩm 6 A-tu-la trên..
[341] Ngũ phược 五 縳; No 23: ngũ hệ五繫: cột cổ, trói hai tay và hai chân.
[342] Thiện pháp giảng đường 善 法 講 堂, Pl.: sudhamma-sālā.
[343] Thất diệp giảng đường 七 葉 講 堂, Pl.: Sattapatta-sālā, hay Cittapāṭali ?
[344] Hán: ngô ngã nhân 吾我人.
[345] Để bản: ái ngã 愛 我. TNM: thọ ngã 受 我;
[346] Bản Hán chỉ nói: hữu sắc vi phược Để bản: ái ngã 愛 我.為縛; theo nội dung, đây thêm ‘tự ngã’ cho rõ. Các mệnh đề tiếp theo cũng thế.
[347] Vô ngã hành 無 我 行, Pl.: anatta-saṃkhāra.
[348] Hữu 有 (Pl.: bhava), đẩy chỉ 1 chi trong 12 chi duyên khởi.
[349] Cựu thiên 舊 天, một danh hiệu khác chỉ A-tu-la, vì nguyên trước là Chư Thiên Đao-lợi; Pl.: Pubbadevā.
[350] Thiểm-bà-la 晱婆羅. No 23: Cư-tra-xa-ma-lê 居
吒奢摩梨. có con Kim sí điểu vương ở trênđó đang đẻ trứng.
[351] No 23: chúng nghĩ, chắc Đế Thích có phục binh nên tháo lui.
[352] Tối thắng 最 勝 堂, Pl.: Vejayanta-pāsāda.
[353] Nguyên hán: giao lộ đài 交露臺. Các đoạn trên kia đều dịch là “la võng”.
[354] Chùy Đỏa A-tu-la 捶打. Vua A-tu-la huy đông Duy-ma-chất 維摩質, Xá-ma-lê 舍摩
利, Mãn-do 滿由 và Kì-la 祇羅 chiến đấu. No 24, 25: A-tu-la vương La-hầu-la 羅睺羅 huy đông Tỳ-ma-chất-đa-la 鞞摩
質多羅, Dũng Dược 踊躍 và Huyển Hóa 幻
化.
[355] Xá-ma-lê A-tu-la 舍摩犁, Pl.: Sambara (?) Xem cht.3254 trên.
[356]. Tỳ-ma-chất-đa A-tu-la 毗摩質多. Xem cht. 354 trên.
[357] Già-lâu-la 伽 樓 羅; Skt. Karoṭapāṇi. Xem châu Diêm-phù-đề. N0 23, các lớp phong thủ của trời Đao-li chống lại A-tu-la: Long vương 龍, quỷ thần Câu-đế 拘蹄, Trì Hoa 持華, Thái-đà-mạt 蔡陀末, và Tứ thiên vương. Các lớp theo No 24, 25: rồng, địa cư Dạ-xoa 地居
夜叉, Bát thủ dạ-xoa 鉢手夜
叉 (No 25: Bát túc 鉢足), Trì man dạ xoa 持鬘夜叉, Thường túy dạ-xoa 常醉夜叉, Tứ thiên vương.
[358] Trì Hoa 持華, trên kia dịch là Trì Man 持鬘; Skt. Mālādhara. Xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề. Xem thêm cht. 357.
[359] Thường Lạc 常 樂, trên kia dịch là Hỷ Lạc 喜 樂; Skt. Sadāmatta. Xem phẩm châu Diêm phù đề. Xem thêm cht. 357.
[360] No 24, 25: Ma-na-bà 摩那婆.
[361] Diệu Tượng 妙 匠. Có lễ là Tỳ-thủ-kiết-ma, tức Pl.: Vissakamma, kiến trúc sư trưởng của Đế Thích.
[362]. Thiện Trụ long vương 善 住 龍 王.
[363] Bản hán, hết quyển 21.
* 第四分世記經三中劫品第十一
[364] Trung kiếp 中 劫, Skt. antarakalpa, kiếp trung gian; nhưng đối lại với mahākalpa, đại kiếp 大 劫, nên cũng thường gọi là tiểu kiếp 小 劫.
[365] Đao binh 刀 兵, cốc quý 穀 貴, tật dịch 疾 疫. Tham chiếu, Câu xá 12: ba tiểu tam tai trung kiếp: đao binh, tật dịch, cơ cẩn. (Skt. kalpasya śastrarogābhyāṃ durbhikṣeṇa nirgamah).
[366] Đao binh kiếp 刀兵劫, Skt. śastra-kalpa., Pl.: sattha-kappa.
[367] Xem kinh 6 “Chuyển luân vương tu hhành”.
[368] Tô du 酥油 (Skt., Pl.: navanīta), mật 蜜 (madhu), thạch mật 石 蜜 (Pl.: madhu-phāṇita), hắc thạch mật 黑石蜜 (kāḷamadhuphāṇita, kāḷa-loṇa ?).
[369] Hán: để bại 稊 稗, chỉ loại cỏ có hạt nhỏ như hạt lúa.
[370] Hán: cẩm 錦, lăng 綾, tắng 繒, quyến 絹.
[371] Kiếp-bối 劫 貝, Pl.: kappāsa, Skt. karpāsa, vải bông (gòn).
[372] Sô-ma 芻 麻; Pl.: khoma; Skt. kṣauma, vải gai.
[373] Cơ ngạ kiếp 饑餓劫, Skt. durbhikṣa-kalpa, Pl.: dubbhikha-kappa; ở trên gọi là cốc quý kiếp.
[374] Cơ ngạ; định nghĩa từ đồng nghĩa của Skt. durbhikṣa (Pl.: dubbhikkha); Kośa-kārikā iii. 99: cañcu (sự mổ bằng mỏ chim), Chân Đế: chiên giá lương 旃遮糧, Huyền Tráng: tụ tập 聚集; Câu xá 12: thời kỳ đói kém cũng được gọi là tư tập, vì con người bấy giờ cực đói, thây chết gom thành đống; cũng vì người sau, người ta cất các thứ hạt giống trong những cái giỏ.
[375] Bạch cốt cơ ngạ 白骨餓; Câu xá ibid. (Skt. śvetāsthi, Pl.: setaṭṭhika).
[376] Thảo mộc cơ ngạ 草木飢餓; (Skt.śalākāvṛtti); Huyền Tráng: vận trù 運籌, Chân Đế: trù lương 籌糧.
[377] Tật dịch kiếp 疾 疫 劫, Skt. roga-kalpa, rogābhyā; Pl.: roga-kappa.
* 佛說長阿含第四分世記經世本緣品第十二
[378] Tham chiếu, kinh số 4, “Tiểu duyên”.
[379] Không Phạm xứ 空 梵 處, Pl.: suñña Brahma-vimāna.
[380] Các chỗ khác, bản dịch Hán gọi là Phạm Đồng tử 梵 童 子, Pl.: Sanaṃkumāra, Thường Đồng hình 常 童 形
[381] Hán: hoàn thành 還 成, Skt. Vivartnana, Pl.: vivaṭṭana.
[382] Tự nhiên hóa sanh 自 然 化 生. Pl.: manomāya. Được sáng tạo do ý.
[383] Hán: hoan hỉ vi thực 歡 喜 為 食, Pl.: pītibhakkha, ăn bằng hỷ.
[384] Hán: thân quang tự chiếu 身 光 自 照, Pl.: sayaṃpabhā.
[385] Đia vị 地 味, Pl.: rasa-paṭhavī.
[386] Đề hồ 醍 醐, Pl.: sappi-maṇḍa.
[387] Sanh tô 生 酥, Pl.: navanīta.
[388] Đoàn thực 摶食, giải thích ngữ nguyên của ý niệm thực phẩm vật chất.
[389] Hán: tạc nhật 昨 日.
[390] Từ nguyên của từ nội hàm hôm nay: a-dya (Pl.: ajja).
[391] Định nghĩa từ Skt. divasa, ngày, Hán: nhật 日; theo ngữ nguyên, do động từ căn: dīv, chiếu sáng.
[392] Hán: trú thường độ 住常度; cùng định nghĩa với mặt trăng. Xem đoạn sau.
[393]Cung điện 宮 殿; cùng định nghĩa với mặt trăng, xem đoạn sau.
[394] Để bản: tử bá 梓 柏. TNM: vi thác 葦籜.
[395] Ngũ phong 五 風: trì phong 持 風, dưỡng phong 養 風, thọ phong 受 風, chuyển phong 轉 風, điều phong 調 風.
[396] Hán: tiệp tật 捷 疾; liên hệ ngữ nguyên: sūrya (do SVAR) và jvala.
[397] Thiên Quang 千光, Skt. Sahasrakirraṇa.
[398] Niệm khoảnh 念頃, Skt. kṣaṇa, Pl.: khaṇa. Nhưng, Câu xá 12: 120 kṣaṇa (sát-na) là một tatkṣaṇa (Huyền Tráng: đát sát-na 怛 剎 那); 60 tatkṣaṇa là 1 lava (Huyền Tráng: lạp phược 臘 縛). Xem cht. tiếp theo.
[399] La-da 羅 耶, Huyền Tráng: lạp phược 臘 縛, Skt. lava.
[400] Ma-hầu-đa 摩 喉 多, Huyền Tráng: mâu-hô-lật-đa 牟 呼 栗 多; Skt. muhūrta.
[401] Ưu-ba-ma 優 波 摩, Huyền Tráng: trú dạ 晝 夜, ahorātra.
[402] Khư-đà-la sơn, xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề, cht. 55. 57.
[403] Y-sa-đà sơn, xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[404] Thọ đề đà la 樹 提 陀 羅, ở trên là Thọ cự-đà-la 樹 巨 陀 羅. Có lẽ do nhầm tự dạng.
[405] Thiện kiến sơn xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề, cht. 60.
[406] Mã tự sơn 馬 祀 山, ở trên là Mã thực sơn, xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[407] Ni-di-đà-la 尼 彌 陀 羅, ở trên là Ni-dân-đà-la; xem phẩm 1 châu Diêm phù đề.
[408] Xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[409] Xem phẩm 1 châu Diêm-phù-đề.
[410] TNM: “giữa núi Kim cang luân và Diêm-phù-đề địa có nước, khi ánh sáng mặt trời chạm đến…”
[411] Để bản: tổn chất 損 質; TNM: viên chất 圓 質.
[412] Tổn 損; định nghĩa indu (mặt trăng) theo ngữ nguyên là ūna ?
[413] Hán: tử bá 梓柏; xem cht. 394.
[414] Để bản: dị hệ 異系; TNM: dị kế 異繼.
[415] Tiệp tật 捷疾. Xem cht. 396.
[416] Thiên quang 千光; xem cht. 397.
[417] Thiện nghiệp thiên quang 善業千光.
[418] Xem các cht. 398 – 401.
[419] Diêm-phù-đề 閻浮提, Skt.Jambudvīpa, Pl.: Jambudīpa. TNM: Diêm-phù-địa 閻浮地.
[420] Diêm-phù-thọ 閻浮樹, Skt., Pl.: jambu, tên loại cây lớn ở Ấn độ, tên khoa học: Eugenia jambolana.
[421] Diêm-phù kim, nói đủ: diêm-phù-đàn kim 閻浮檀金 (Skt., jambonada-suvarna; Pl.: jambonada-suvaṇṇa), thứ vàng xuất xứ từ cát của con sông chảy qua rừng cây jambu.
[422] Tẩm 蕈; TNM: đan 簞.
[423] Cô 孤; TNM: 觚.
[424] Bảy nước: 1. Câu-lâu 拘 樓, 2. Câu-la-bà 拘 羅 婆, 3. Tỳ-đề 毗 提, 4. Thiện-tỳ-đề 善 毗 提, 5. Mạn-đà 漫 陀, 6. Bà-la 婆 羅, 7. Bà-lê 婆 梨.
[425] Hải trùng 海 蟲, loài sâu biển (?).
[426] Bảy Hắc sơn 黑山: 1. Lõa thổ 裸土, 2. Bạch hạc 白鶴, 3. Thủ cung 守宮, 4. Tiên sơn 仙山. 5. Cao sơn 高山, 6. Thiền sơn 禪山, 7. Thổ sơn 土山.
[427] Thất tiên nhân trú xứ 七仙人住處: 1. Thiện đế 善帝, 2. Thiện quang 善光, 3. Thủ cung 守宮, 4. Tiên nhân 仙 人, 5. Hộ cung 護宮, 6. Già-na-na 伽那那, 7. Tăng ích 增益.
[428] Từ đây trở xuống, xem kinh số 5 “Tiểu duyên.”
[429] Kiếp sơ 劫 初, thời kỳ nguyên thủy. Pl.: aggañña; Skt. kalpāgra.
[430] Hán: địa bì 地 皮, Ở trên, kính số 5 “Tiểu duyên”: địa phì 地 肥. Huyền Tráng: địa bì bính 地 皮 餅; Chân Đế: địa bì càn 地 皮 乾. Pl.: bhūmipappaṭaka; Skt. pṛthivīparpaṭaka. Xem cht. 17, kinh số 5 “Tiểu duyên.”
[431] Hán: địa phu 地 膚; Huyền Tráng, Chân Đế: lâm đằng 林 藤, dây leo rừng. Pl.: badālatā; Skt. vanalatā.
[432] Thiên hoa 天 華.
[433] Hán: canh mễ 粳 米. Huyền tráng: hương đạo 香 稻; Chân Đế: xá-lị (lợi) 舍 利; Skt. śāli, Pl.: sāli. Xem cht. 18, kinh số 5 “Tiểu duyên.”
[434] Hán: khang khoái 糠 糩. Pl.: kaṇa-thusa.
[435] Hán: đọa 墮; Pl.: patti, nghĩa đen: té, đọa lạc; chuyển thành nghĩa: tội lỗi.
[436] Hán: phu chủ bất thiện 夫主不 善. Định nghĩa danh từ chồng (Hán: phu chủ). Pl.: pati (người chồng), coi như đồng âm với patti, do gốc động từ PAD: rơi, té, đọa lạc.
[437] Nguồn gốc của danh từ vợ; bhariyā (vợ), do động từ bharati: mang cho.
[438] Nguồn gốc của từ Pl.: gaha (nhà), do gūhati: che dấu.
[439] Hán: xử thai 處 胎; Pl.: gabba.
[440] Các thành: Chiêm-bà 瞻 婆, Pl.: Campā; Già-thi 伽 尸, Pl.: Kāsi; Bà-la-nại 婆 羅 奈, Pl.: Bārāṇasī; Vương xá 王 舍, Pl.: Rājagaha.
[441] Có lẽ xác định ngữ nguyên của nagara, thành trì hay đô thị, là do naga: mặt trời.
[442] Bình đẳng chủ 平 等 主.
[443] Xem kinh số 5 “Tiểu duyên”: bắt đầu có danh từ vương 王, Pl.: rāja.
[444] Phả hệ dòng vua đầu tiên: Dân Chủ 民主, Trân Bảo 珍寶, Hảo Vị 好味, Tĩnh Trai 靜齋, Đảnh Sanh 頂生, Thiện Hành 善行, Trạch Hành 宅行. Diệu Vị 妙味, Vị Đế 味帝, Thủy Tiên 水仙, Bách Trí 百智, Thị Dục 嗜欲, Thiện Dục 善欲, Đoạn Kết 斷結, Đại Đoạn Kết 大斷結, Bảo Tàng 寶藏, Đại Bảo Tàng 大寶藏, Thiện Kiến 善見, Đại Thiện Kiến 大善見, Vô Ưu 無優, Châu Chữ 洲渚, Thực Sanh 殖生, Nhạc Sơn 岳山, Thần Thiên 神天, Khiển Lực 遣力, Lao Xa 牢車, Thập Xa 十車, Bách Xa 百車, Lao Cung 牢弓, Bách Cung 百弓, Dưỡng Mục 養牧, Thiện Tư 善思.
[445] Thanh Ma vương, xem kinh số 20: “A-ma-trú.”.
[446] Bạch Tịnh vương 白 淨 王, hoặc dịch là Tịnh Phạn vương 淨 飯 王, Pl.: Suddhodāna, vua nước Ca-tỳ-la-vệ (Pl.: Kapilavatthu), phụ vương của đức Thích Tôn.
[447] Chỉ đức Thích Tôn.
[448] Ngữ nguyên của từ sát-lị, xem kinh số 5 “Tiểu duyên.”
[449] Ngữ nguyên của từ Bà-la-môn, kinh số 5 “Tiểu duyên.”
[450] Vô thiền Bà-la-môn 無 禪 婆 羅 門, kinh Tiểu duyên: Bất thiền Bà-la-môn; xem kinh số 5 “Tiểu duyên.”
[451] Hán: độc 毒.
[452] Bản hán, hết quyển 22.
*** HẾT ***
| Trang trước | Mục lục |