Ly kỳ thiền sư Việt phóng lửa từ thân mình… tự thiêu
Hai thiền sư Bảo Tánh và Minh Tâm tự phóng hỏa quang tam muội để lại thất bảo không chỉ là chuyện đồn đại ngoài xã hội đương thời mà còn ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư…
Lâu nay chúng ta thường nghe danh các thiền sư đắc đạo ở những nước xa xôi như Ấn Độ, Tây Tạng, hoặc gần hơn như Trung Quốc, Nhật Bản, mà dường như rất ít biết về các thiền sư đắc đạo ở nước ta…
Thiền sư đắc đạo từ nghìn xưa
Sử liệu về thiền sư nước ta vốn có gốc gác từ hàng nghìn năm trước đã được biên soạn và khắc in, song qua nhiều biến cố lịch sử và cơn binh lửa nên bị thất lạc hoặc thiêu hủy. Nhất là cuối đời Trần, khi nhà Minh sang xâm chiếm nước ta đã gom hết sách sử kể cả kinh sách Phật giáo trong nước để mang về Trung Quốc, số nào không mang đi được thì đốt bỏ. Mãi đến thời Pháp sang, Nhật đến, sách sử Việt Nam lại một lần nữa bị gom lại đem ra nước ngoài…
Đến ngày nay, muốn khảo cứu các trước tác của tiền nhân về Phật pháp nước ta lắm khi phải vào các thư viện của nước ngoài mượn đọc. Phần khác các sử liệu về thiền sư nước ta trước kia đều viết bằng chữ Hán, trong lúc ngày nay chúng ta học chữ quốc ngữ nên việc tiếp cận hết sức khó khăn. Tuy vậy, gần đây cũng đã có một số công trình nghiên cứu Phật học giá trị làm khơi dậy việc tìm hiểu sâu hơn về văn hóa Phật giáo Việt Nam vốn là một trong các dòng chủ lưu của văn hóa dân tộc như GS Trần Văn Giàu từng khẳng định. Các công trình trên cho chúng ta thấy từ nghìn xưa đến nay, các thiền sư Việt Nam đắc đạo rất nhiều, chẳng những ở thời cận đại mà cả từ đầu Công nguyên. Có những vị đã vượt “nghìn trùng” non nước để từ Việt Nam qua tận Ấn Độ để chiêm bái Bồ đề đạo tràng và ở lại học tiếng Phạn rồi thoát xác bỏ thân ở chùa Niết Bàn bên đó như ngài Đại Thừa Đăng chẳng hạn.
Nhờ vậy nay chúng tôi dựa vào tài liệu mới công bố, cùng kết quả biên soạn của các vị cao tăng cũng như các nhà nghiên cứu Phật học hàng đầu của Việt Nam như cố hòa thượng Thích Mật Thể, hòa thượng Thích Thanh Từ, hòa thượng Thích Nhất Hạnh, GS Nguyễn Đăng Thục, GS Lê Xuân Khoa, học giả Lê Mạnh Thát kết hợp cùng tài liệu riêng mà chúng tôi có được để giới thiệu qua loạt bài này những câu chuyện độc đáo của các thiền sư Việt Nam đắc đạo với mong muốn được góp phần nhỏ vào việc thông tin về hành trạng của những bậc long tượng trong lịch sử văn hóa Phật giáo và dân tộc.
Quang cảnh chánh điện chùa Cảm Ứng (ảnh của nhiếp ảnh gia Võ Văn Tường).
Phóng lửa từ người để tự đốt xác
Hai thiền sư đời Lý Thái Tông (Phật Mã) là Bảo Tánh và Minh Tâm là đôi bạn rất thân từ thuở nhỏ. Hai vị đều rủ nhau xuất gia lúc còn thiếu niên và cả hai đều nắm được tâm yếu của thiền gia (do trưởng lão Định Hương truyền pháp), suốt 15 năm dài chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa đều đặn hằng ngày và là hai thiền sư nổi danh khắp chốn tùng lâm đất Bắc. Về sau, hai vị đồng trụ trì ở chùa Cảm Ứng tại Sơn Ấp, phủ Thiên Đức, thuộc vùng Bắc Ninh ngày nay. Đến năm 1034, tự thấy công việc hoằng pháp của mình đã hoàn mãn, hai vị cùng muốn thiêu thân mình một lúc. Nghe tin ấy, vua Lý Thái Tông sai sứ đến thỉnh về triều, mở hội giảng kinh thuyết pháp. Thuyết xong, hai vị đồng phóng lửa từ bên trong thân mình để tự đốt xác trước đông đảo đồ chúng. Xác cháy hết để lại nhiều xá lợi thuộc dạng thất bảo.
Để tìm hiểu, chúng tôi đến gặp sa môn Huệ Thiện và được giải thích về “hỏa quang tam muội” như sau: Hỏa quang tức là sức nóng và sức sáng tỏa ra từ sức đại định của các thiền sư đắc đạo. Tam muội là chữ dùng để chỉ trạng thái của một hành giả trụ tâm mình vào một chỗ không lay động gọi là Samadhi theo tiếng Sankris, còn gọi là “tam ma địa”, “tam ma đề” hoặc “chánh định” và “chánh tâm hành xứ”…
Dẫn giải thêm, sa môn Huệ Thiện giới thiệu chúng tôi tìm hiểu nội dung liên quan qua cuốn Từ điển Phật học Huệ Quang do hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên. Theo đó, “hỏa quang tam muội” còn gọi Hỏa giới tam muội, Hỏa diệm tam muội hoặc Hỏa sinh tam muội, tức là ngọn lửa phát ra từ thân mình “biểu thị cho việc dùng lửa trí huệ của tâm Bồ đề thanh tịnh mà thiêu sạch phiền não và tam độc (tham – sân – si) cùng ngũ dục (tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống và mê ngủ)”. Ngọn lửa ấy cũng có trường hợp “phát ra để tự thiêu thân mà nhập Niết bàn”.
Khi đức Phật Thích ca Mâu ni nằm nghiêng hông bên phải an nhiên thị tịch trong rừng Tala song thọ, ngài Ca-diếp từ xa về thấy “Tam muội chân hỏa trong kim quan của Phật cháy đỏ rực với ánh sáng xá lợi chiếu khắp đất trời”. Riêng trường hợp hai thiền sư Bảo Tánh và Minh Tâm tự phóng hỏa quang tam muội để lại thất bảo không chỉ là chuyện đồn đại ngoài xã hội đương thời mà còn ghi rõ trong Đại Việt sử ký toàn thư với thông tin: “Vua xuống chiếu đem thất bảo ấy về chùa Trường Thánh để hương đèn thờ cúng”…
Kỳ 2: Những cái chết siêu phàm
Cái chết siêu phàm của các thiền sư Việt
“Ta sẽ chẳng quay lại cõi này nữa”, thiền sư Y Sơn vừa dứt lời cây hoa trước sân bỗng rụng hết bông, chim chóc kêu thương bi thảm suốt mấy tuần…
Nhắc đến cái chết ai nấy không ưa, nhưng với thiền sư Giới Không có khác, trước khi mất, ngài gọi đệ tử đến dạy hai lẽ “sống” và “chết” không khác nhau nên đừng có sợ hãi: “Nếu cho sanh và tử khác đường thì lừa cả Thích Ca, Di Lặc”, nói xong cười to một tiếng vang động thiền đường, rồi chắp tay qua đời…
Chết à? Vô sự! Vô sự!
Nghe thiền sư thị tịch theo cách đó, vua Lý Thần Tông (ở ngôi 1128 – 1138) và triều thần đều kinh ngạc. Sinh thời sư dùng nước chú rảy lên người bệnh để chữa trị trong nạn dịch lớn năm Đại Thuận thứ 8, mỗi ngày cả ngàn người được chữa lành, nên triều đình kính phục, dân chúng nhớ ơn, môn nhân cùng châu mục Lê Kiếm và phòng sát sứ Hán Đinh làm lễ hỏa táng thâu xá lợi và sai đắp tượng sư để thờ.
Thiền sư Trì Bát cũng vậy, gọi người trong chùa đến đọc kệ: “Có chết tất có sống. Có sống tất có chết (…) sống chết chẳng bận lòng”, xong ngồi thẳng bình thản thị tịch (1117). Các thiền sư có cách chết tự tại như thế rất nhiều, có thể kể: Ngộ Ấn (1088), Thuần Chân (1101), Đạo Huệ (1172), Bảo Giám (1173), Bổn Tịnh (1176) , Đại Xả (1180), Tín Học (1190)… Có vị không nói kệ mà gọi đồ chúng đến nói vỏn vẹn bốn chữ: “Vô sự! Vô sự!” rồi tịch như ngài Bổn Tịch (1140). Ngài Huệ Sinh tắm gội thắp hương, nửa đêm lặng lẽ ra đi (1063). Ni sư Diệu Nhân cạo tóc, nấu nước tắm sạch sẽ, ngồi yên thị tịch (1113). Thiền sư Y Sơn trước lúc mất bảo môn đồ: “Ta sẽ chẳng quay lại cõi này nữa”, vừa dứt lời cây hoa trước sân bỗng dưng rụng hết bông, chim chóc kêu thương bi thảm suốt mấy tuần chưa dứt (1213).
Chùa Keo (Thần Quang) nơi thờ thiền sư Không Lộ – viên tịch năm 1119 để lại bài kệ Ngôn Hoài nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam với câu cuối, tạm dịch: “Có lúc thẳng lên đầu núi thẳm – cất tiếng cười vang lạnh đất trời”.
Thiền sư Pháp Loa (Đồng Kiên Cương) nối pháp Phật Hoàng làm nhị tổ của phái Trúc Lâm nằm im không thấy nói gì, đệ tử của ngài đến thưa thỉnh, hỏi ngài: “Các thầy trước khi mất đều có bài kệ dạy đệ tử mà sao ngài không có?”. Ngài quở trách họ quá “chấp”, ngồi dậy bảo họ đem bút giấy lại cho mình để tự tay viết một bài kệ bốn câu, tạm dịch “Vạn duyên đều cắt, thân nhàn vậy/Hơn bốn mươi năm giấc mộng dài/Nhắn bảo người đời đừng hỏi nữa/Bên trời lồng lộng gió trăng đây!”. Viết xong, ném bút xuống đất, an nhiên thị tịch như chẳng có chuyện gì xảy ra!
Thiền sư Đức Minh xác còn tươi sau 100 ngày
Thiền sư Đức Minh, người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, người đời gọi là Thánh Bối, đi vân du từ năm 15 tuổi, sau về chùa Tiên Lữ suốt 10 năm (tức chùa Trăm Gian lập từ đời Lý Cao Tông 1185 trên ngọn đồi 50m). Sư đắc đạo và nắm nhiều quyền năng siêu nhiên, rất giỏi phép thần thông, vua Trần nghe danh mời về chùa Trường An.
Những hành trạng ích nước lợi dân của sư ghi qua hai câu đối: “Bắc quốc chí kim kinh nộ vũ/Nam phương tự cổ vọng tường vân” (nghĩa là: Bắc quốc đến nay còn sợ trận mưa giận dữ/Phương Nam từ xưa vẫn ngóng đám mây lành) xuất phát từ câu chuyện lưu truyền và ghi lại qua tài liệu Những ngôi chùa nổi tiếng của GS Nguyễn Quảng Tuân: “Khi quân Minh xâm lược nước ta vào thế kỷ XV, có một toán giặc kéo tới phá tháp đốt chùa. Trước việc làm tàn ngược ấy, Đức Thánh Bối mới nổi giận hóa phép làm ra một trận mưa dài suốt ba ngày đêm, nước đỏ như máu, dâng cao tới ba thước dìm chết hết lũ giặc. Sau đó một đám mây năm sắc (tường vân) hiện trên nền trời, xóm làng lại khô ráo, mùa màng cây cỏ lại tốt tươi như cũ”.
Tượng thiền sư Pháp Loa, người được cho rằng viết kệ xong ném bút rồi an nhiên thị tịch.
Lúc đã hơn 90 tuổi, sư trở về chùa núi Tiên Lữ cho xây mới chùa ấy. Cuốn Thiền sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ kể: “Lúc chùa đang xây dựng, sư đi guốc gỗ qua lại trên cây kèo xem thợ làm, đi lại bình thường như đi trên đất. Thợ thầy trông thấy đều bái phục thần thông của sư. Sư tuổi đã 95, một hôm vào ngồi trong am gỗ, gọi chư tăng đến bảo: “Nay ta đã hết trần duyên sẽ tịch. Các con đóng cửa am lại, sau ba tháng mở ra, nếu thấy mùi thơm thì để thờ, nếu thấy hôi thối thì đem táng ở ngoài đập”. Nói xong, sư liền ngồi yên thị tịch. Sau 100 ngày, chư tăng mở cửa am, nghe mùi hương thơm phức, mọi người liền làm lễ phụng thờ”. Dân chúng xã Bối Khê và quanh vùng lập đền thờ sư, hằng năm cứ ngày 12 tháng Giêng mở hội tế lễ linh đình trang trọng…
theo: kienthuc.net.vn