Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời
Tác giả: Dale Carnegie
Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
— o0o —
Phần 1
Chương 1
Một Triển Vọng Đáng Mừng
Một nhà hiền triết đã mô tả về ý nghĩa của một đời người chỉ trong một câu ngắn gọn: “Con người sinh ra chỉ để đau khổ và cuối cùng chết đi.”
Nói về sự đau khổ của cuộc đời, ngày nay hẳn không còn ai phải hoài nghi hay tranh cãi. Người ta thường chỉ không đồng ý với nhau trong việc nhận định về những đau khổ đó và nên đối phó với chúng như thế nào mà thôi.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, người đầu tiên đã nhận thức và mô tả hết sức cụ thể về những đau khổ của đời người là một người Ấn Độ. Ngài đã chỉ rõ mọi nguyên nhân cội nguồn của đau khổ và vạch ra con đường thoát khổ, được hàng triệu triệu người trên khắp thế giới noi theo từ đó đến nay và mỗi người đều đạt được những sự lợi ích tinh thần nhất định, từ những phút giây thanh thản trong đời sống thường nhật cho đến những trạng thái giải thoát toàn diện thoát khỏi mọi khổ đau.
Lịch sử ghi nhận sự kiện đản sinh của bậc vĩ nhân đó với tên gọi Thái Tử Sĩ Đạt Ta, và về sau được tôn xưng là Đức Phật, với ý nghĩa là bậc Toàn Giác.
Phụ vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ thời đó. Người quyết định truyền ngôi cho thái tử nên đã giữ chặt thái tử trong cung, không cho thái tử nhìn thấy những cảnh lầm than, đau khổ của người đời.
Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm. Đến lúc trưởng thành, vua cha cưới cho thái tử một vị công chúa nhan sắc tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, thái tử chưa hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc quanh hoàng cung. Khi thái tử có được một hoàng nam, người thấy nhàm chán cảnh cung điện và muốn biết có những gì ở cuộc sống bên ngoài cung điện. Người mới xin phép vua cha xuất thành du ngoạn. Lần đầu tiên thái tử được nhìn thấy cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đảo và đời sống thực tế bên ngoài cung điện.
Sau khi du ngoạn bên ngoài bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy những cảnh tượng làm cho người chú ý. Đó là cảnh một người già, một người bệnh tật và một xác chết. Thái tử lần đầu tiên thấy được những cảnh này, vô cùng xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo ngài: “Tại sao lại có những cảnh đau khổ như thế?”
Khi được biết rằng đó là những điều vẫn xảy ra với tất cả mọi người, không ai tránh khỏi, Thái tử vô cùng buồn bực, đến nỗi Ngài không còn ham thích gì cuộc sống xa hoa.
Khi trở về cung, ngài bắt đầu nuôi ý định xuất ly, từ bỏ tất cả mọi sản nghiệp, gia đình vợ con để xuất gia tầm đạo, tìm một phương cách để cứu vớt nhân loại và chúng sinh thoát khỏi sự lầm than đau khổ.
Ý nguyện của ngài không được sự chuẩn thuận của vua cha. Vì thế, ngài đã phải đang đêm vượt thành để ra đi tầm đạo. Sau nhiều năm khổ công tìm kiếm và tu tập, tham thiền quán tưởng, ngài đạt được trạng thái giác ngộ, trở thành một bậc toàn trí toàn giác, xứng đáng với danh hiệu Phật-đà, nghĩa là Bậc tỉnh giác. Sau đó ngài mới truyền dạy đạo giải thoát cho thế gian, chỉ cho tất cả mọi người thấy được con đường thoát khổ.
Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không ai có thể làm giống như đức Phật Thích Ca, nghĩa là nhất thời dứt bỏ tất cả sự giàu sang, quyền thế, danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một mục đích quá cao xa như việc đi tìm chân lý và tìm hiểu ý nghĩa chân thật nhất của cuộc đời! Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều phải trải qua những hình thức khổ đau nhất định trong cuộc đời mình và hẳn đã có lúc phải tự hỏi:
– Tại sao con người phải chịu đau khổ? Và ta có thể làm gì để thoát khổ?
Cách giải thích về những “tội lỗi bẩm sinh” mà con người phải nhận lấy ngay từ lúc sinh ra dường như không thuyết phục đối với nhiều người. Họ thấy không có lý do gì để người ta phải chịu đựng khổ đau chỉ vì những điều mà họ hoàn toàn không tự mình thực hiện! Nhưng nếu cho rằng có những điều chính ta đã thực hiện trong quá khứ để dẫn đến sự khổ hiện nay nhưng ta hoàn toàn không nhớ biết chỉ vì si mê thì nhiều người cũng không tin nhận được, vì họ cho rằng không có sự chứng minh cụ thể nào cả!
Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa về một thời kỳ trong tương lai mà bốn nỗi khổ của đức Phật nêu ra sẽ có hai điều không còn nữa, đó là bệnh tật và già yếu. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có rất nhiều những phát minh đột phá, người ta vẫn chưa bao giờ chạm tới ngưỡng cửa của sự chấm dứt hoàn toàn bệnh tật hoặc làm cho con người không còn chịu tiến trình lão hóa. Cứ mỗi khi tìm được phương pháp điều trị cho một căn bệnh nan y nào đó, thì dường như là ngay lập tức sẽ thấy xuất hiện một căn bệnh mới, còn bất trị hơn cả căn bệnh trước đó! Và như thế lúc nào con người cũng phải luôn đứng trước những thách thức không thể vượt qua của bệnh tật. Còn nói đến tiến trình già yếu thì càng không thấy có triển vọng gì tốt đẹp! May mắn lắm thì người ta cũng chỉ hy vọng tìm ra một phương thuốc nào đó làm cho con người có thể trẻ hóa được chừng năm mười năm tuổi cũng đã là phi thường lắm rồi, đừng nói chi đến việc “cải lão hoàn đồng”!
Nhưng cho dù có vượt qua được sự bệnh tật và già yếu, con người hầu như cũng không thể tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn xem là kẻ thù lớn nhất: Đó là sự chết! Ranh giới giữa sống và chết bao giờ cũng hết sức mong manh, và con người chưa hiểu biết được bao nhiêu về vấn đề này nên có thể nói là hoàn toàn bất lực trong việc tác động vào nó. Cho dù người ta có thể làm ra những cỗ máy khổng lồ đủ sức san bằng cả một hòn núi nhỏ, thì họ cũng không thấy có chút hy vọng gì có thể làm cho một con chuột nhắt bé tí đã chết có thể sống lại dù chỉ trong chốc lát!
Trong khi chờ đợi một cách vô vọng những tiến bộ của con người theo hướng này, và trong khi sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn còn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, sự anh ổn và hạnh phúc, thì chúng ta vẫn luôn phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh trong đời sống, những mối nguy cơ, tai họa và đau khổ luôn rập rình đe dọa sự hạnh phúc và bình an trong tâm hồn chúng ta! Những tai họa thiên nhiên như hỏa hoạn, bão lụt, dịch bệnh, động đất… kèm theo với những cuộc chiến tranh do chính con người gây ra luôn sẵn sàng cướp đi đời sống an ổn của bất cứ ai trong chúng ta. Đó chỉ là mới kể qua một vài sự tác động xấu từ bên ngoài, còn nói về những yếu tố bên trong, tức là phần nội tâm, thì con người lại luôn sẵn có vô số những sự yếu đuối, bất toàn, như lòng ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê .v..v… đều là những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho chính bản thân mỗi người và cho những người chung quanh.
Trong những giây phút vui tươi ít ỏi của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt du dương, hay khi nhìn thấy cảnh sắc muôn màu của lúc bình minh, chúng ta thường cảm thấy rằng trong vũ trụ tự nhiên hẳn luôn sẵn có sự an vui và ẩn giấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm nào đó, khác hơn là những nỗi khổ đau mà ta phải thường xuyên gánh chịu. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng não nề cay đắng, thì chúng ta không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi như là:
– Ý nghĩa và mục đích của cuộc đời này là gì?
– Ta là ai?
– Tại sao ta sinh ra ở đây?
– Rồi ta sẽ đi về đâu?
– Tại sao ta phải chịu đau khổ?
– Có những mối quan hệ gì giữa ta và những người khác quanh ta?
– Giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên bao phủ cuộc đời chúng ta có mối liên hệ như thế nào chăng?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ những thời đại quá khứ xa xăm. Nhưng ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sự đau khổ, dầu là những phương tiện vật chất hay tinh thần, đều chỉ có ý nghĩa vô cùng hạn chế và không thể giúp cho ta có được hạnh phúc thực sự. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại về cơ bản vẫn chưa được giải quyết, thì có thể nói là những nỗ lực của con vẫn chưa giải quyết được gì cả, vì tất cả mọi thành tựu vật chất hay tinh thần xét cho cùng cũng không có ý nghĩa gì khi mà người ta phải luôn oằn vai dưới gánh nặng khổ đau. Ngày nào mà trên thế gian còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích được nguyên nhân, thì xem như người ta chưa thực sự giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý của nhân loại về cuộc đời vẫn còn là thiếu sót, bất toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi trên. Và càng suy ngẫm thì họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả và đau khổ của con người không hẳn là vô ích và vô nghĩa như người ta có thể lầm tưởng. Bởi vì, trong khi những ý nghĩa vật chất nhìn thấy được là hoàn toàn không có giá trị chân thật, thì sự đào luyện và tiến hóa về tinh thần nhờ trải qua những kinh nghiệm khổ đau vẫn luôn là một điều có thật. Từ đó, người ta cảm thấy nhất định phải một sự liên quan giữa con người với thế giới tâm linh hay phần tinh thần phi vật thể. Chính từ những cảm nhận mơ hồ đầu tiên này mà người ta bắt đầu tin vào sự hiện diện vô hình của những đấng thần minh trong những khu rừng thẳm hoặc trên đồi cao, nơi gốc đa đầu làng hoặc giữa đồng hoang vắng vẻ… Cũng từ đó, người ta tin rằng mỗi sinh vật, từ con người cho đến loài cầm thú, đều có một linh hồn, và rằng linh hồn đó tuy phải chịu những đau khổ cùng với thể xác, nhưng vẫn sẽ tồn tại sau khi chết trong một hình thức phi vật chất và tiếp tục có một đời sống riêng của nó. Mặc dù những niềm tin như thế hầu hết đều là vô căn cứ, nhưng nó lại thực sự xuất phát từ những cảm nhận rất thật của con người trong suốt quá trình chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, những niềm tin này hầu như đã đồng thời xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, bất chấp mọi sự khác biệt về chủng tộc, địa lý…
Khi sự suy nghiệm của con người về vấn đề này đã trải qua được những quãng thời gian rất dài thì những lý thuyết khác nhau dần dần được phát sinh. Hoặc có người cho rằng ngoài cõi trần gian đau khổ này mà loài người đang sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, hẳn phải còn có một cảnh giới vô hình nào đó để là nơi thưởng phạt công minh đối với những hành động thiện ác của con người ở thế gian. Và xuất phát từ niềm tin đó mà người ta đã tin rằng có những cảnh thiên đàng hay địa ngục. Tùy theo sự tưởng tượng, hình dung khác nhau ở từng nơi mà người ta dựng nên những đấng cầm cân nảy mực khác nhau, hoặc miêu tả những cảnh thiên đàng và địa ngục khác nhau, nhưng tựu trung vẫn giống nhau ở điểm là khuyến thiện trừ ác và sự công bằng tuyệt đối của sự phán xét vô hình đó.
Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra rất nhiều. Có những cách giải thích hãy còn giản dị thô sơ, chất phác, nhưng cũng có những cách giải thích tinh tế, sâu sắc hơn, và cũng có những cách giải thích được mọi người cho là hợp lý, thuyết phục. Và chính nhờ sự tin tưởng vào những giải thích được chấp nhận đó mà con người vẫn có thể tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn, đau khổ giữa cuộc đời, vì sự thật là nếu không có những niềm tin đó thì cho dù con người có can đảm đến đâu cũng không thể nào vượt qua được những cơn khủng hoảng. Có người tin tưởng ở Đức Mahomet, có người tin tưởng ở Đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay Đức Krishna, hoặc một hình tượng tôn giáo nào khác nữa…
Có nhiều người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy nhất, đó là ý nghĩa của sự sống. Một số người khác không cần bận tâm tìm biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng, khoái lạc trong hiện tại. Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời thường là như thế này:
– Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một thử thách đưa đến cho chúng ta, thiên đàng hay địa ngục là những điều thưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian.
Những người chấp nhận sự giải thích đó không hề nói rằng họ có đủ bằng chứng; vì đó chỉ là sự giải thích mà họ được hấp thụ từ cha mẹ và từ các giáo sĩ; và chính những vị này cũng đã hấp thụ từ những bậc phụ huynh và các giáo sĩ trong thế hệ của họ, rồi cứ như thế đi ngược dòng thời gian cho đến khi người ta tìm thấy nguyên ủy mọi sự nằm trong một quyển sách gọi là Kinh Thánh (Bible), và một người đã thiết lập, củng cố niềm tin ấy tên là Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bộ sách này thật là hay tuyệt, và Đức Jesus, cho dù là một con người hay thực sự là con của Chúa Trời, vẫn phải xem là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ Phục Hưng (Renaissance) cho đến nay, người Tây phương ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín điều dựa trên niềm tin không được xác tín, dẫu cho đó là tin vào một quyển sách hay một con người. Bất cứ tín điều nào không thể chứng minh được bằng các phương tiện khoa học đều gây ra một sự hoài nghi mỗi lúc một tăng thêm.
Nhà thiên văn học Ptolemy (Ptolémée)[1] nói rằng mặt trời xoay quanh trái đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic[2] đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng minh điều ngược lại, rằng chính trái đất xoay chung quanh mặt trời!
Triết gia Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng lúc hai vật có trọng lượng khác nhau từ trên cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước, và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài nghiêng ở thành phố Pise, Galileo[3] đã chứng minh rằng hai vật có trọng lượng khác nhau vẫn có thể rơi xuống đất cùng lúc nếu chúng có thể tích khác biệt tương ứng.
Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn cho rằng trái đất vốn là một mặt phẳng rộng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng nhiều nhà thám hiểm khác nữa của thế kỷ XV đã làm đảo ngược giả thuyết trên đây bằng những chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ một điểm và đi thẳng theo hướng đông nhưng cuối cùng lại đến được điểm khởi đầu, chứng tỏ rằng họ đã đi theo một đường tròn.
Những sự chứng minh trên đây cùng nhiều chứng minh khác nữa đã dần dần chứng tỏ rằng những giả thuyết dựa trên niềm tin vô căn cứ từ thời xưa không chắc gì là đúng. Do đó đã nảy sinh quan niệm khoa học và óc hoài nghi phán đoán của người thời nay.
Tuy nhiên, có một thực tế là trong sự tranh đấu để sống còn con người không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta không tìm ra lý do nào để giải thích ngoài việc phải thừa nhận là nó không có mục đích gì cả! Lẽ nào người ta lại không thể có một cuộc sống không phải chịu đau khổ? Và những gì ta biết về sự chết cho đến nay vẫn chỉ là “một sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất”, ngoài ra ta không còn biết gì hơn nữa.
Như vậy, với khuynh hướng khoa học, người ta đã thay thế niềm tin vào Kinh Thánh hay các vị giáo chủ bằng niềm tin vào năm giác quan và các thiết bị khoa học!
Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của năm giác quan đến mức vượt xa trước đây, nhưng người ta vẫn dựa vào sự nhận xét bằng năm giác quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác như là nền tảng của mọi lý luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm gần đây, người ta đã trở nên phức tạp hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta phát minh ra đã chỉ cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật vô cùng thiếu sót, bất toàn và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một cách thật sự đầy đủ, chính xác. Những luồng sóng Hertz,[4] chất phóng quang, nguyên tử lực… đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những mãnh lực vô hình; và những phân tử nhỏ bé nhất của vật chất đều là những kho chứa đựng năng lực, hàm súc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con người trước đây không thể tưởng tượng nổi.
Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt… mà chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của căn nhà bé nhỏ là xác thân của chúng ta. Sự nhạy cảm của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ giúp ta tiếp nhận một biên độ vô cùng nhỏ hẹp trong biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông, côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn loài người; bởi đó vũ trụ của chúng bao hàm nhiều sự vật mà chúng ta từ lâu không nhận biết hoặc không thể nhận xét rõ. Thật đáng ngạc nhiên khi con người vốn tự hào về trí thông minh đứng đầu trong muôn loài nhưng lại thua kém một số loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về năng lực của giác quan để biết về vũ trụ bên ngoài. Hơn nữa, vì phải phụ thuộc vào những công cụ, phương tiện khoa học mà chính trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh, nên con người không thể tự mình nhận biết và quan sát mọi sự vật trong vũ trụ mênh mông rộng lớn.
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận biết của giác quan đến mức nhạy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức bình thường một phần nào thôi. Phải chăng khi ấy ta sẽ nhận biết được nhiều sự vật mà trước kia ta không hề nghe, không hề thấy?
Hoặc nếu có một người nào đó bẩm sinh đã có được những giác quan phi thường, với một tầm nhận biết rộng lớn hơn, phải chăng điều tất nhiên là người này sẽ có thể nghe thấy, nhận biết những sự vật mà chúng ta không thấy, không nghe? Với một mức độ khác biệt nào đó, phải chăng người ấy có thể nghe, thấy và nhận biết vượt qua cả những khoảng không gian xa xôi, tương tự như máy vô tuyến truyền thanh hoặc truyền hình?
Đứng trước thế giới mênh mông vô tận với biết bao điều còn bí ẩn mà những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ hai mươi đã hé mở cho chúng ta nhận biết phần nào, thì người ta buộc phải nhìn nhận khả năng xảy ra những điều nói trên. Và nếu nhìn ngược dòng lịch sử loài người, chúng ta sẽ thấy đã từng có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả năng nhận biết phi thường của một số người. Một trong số những người đó là ông Swedenborg,[5] nhà bác học trứ danh của thế kỷ 18. Ông này có được một năng lực nhận biết rất phi thường. Người ta đều biết rõ một chuyện về năng lực phi thường của ông, vì chuyện này được rất nhiều người chứng kiến, trong số đó có cả nhà triết học Emmanuel Kant.
Một buổi chiều vào khoảng sáu giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giật mình và nói rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ năm trăm cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến tám giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác.
Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những bài tường thuật về cuộc hỏa hoạn bộc phát đúng vào lúc ông giật mình và có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này!
Đây không phải là trường hợp duy nhất, tiểu sử của nhiều nhân vật tên tuổi cũng ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có những người nổi tiếng như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens.v.v… Trong vài trường hợp, chính những người thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy thình lình những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ chi tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Nhưng trong phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó dường như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn vào những hiện tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một tinh thần cởi mở, sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những người thông hiểu các trào lưu khoa học và những nhu cầu của thế hệ, thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng nhất định.
Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi và thừa nhận rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên đáng được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, cũng như đã ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B. Rhine,[6] giáo sư trường Đại Học Duke. Từ năm 1930, tiến sĩ Rhine và những người cộng sự đã nghiên cứu sâu về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn trong con người.
Bằng những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và tuân theo một phương pháp khoa học đặc biệt, tiến sĩ Rhine đã khám phá được một điều là trong phòng thí nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan một cách phi thường. Người ta có thể tìm thấy những chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả sưu tầm của tiến sĩ Rhine trong quyển sách nhan đề “The Reach of the Mind” (Tầm hoạt động của trí não” do chính ông xuất bản năm 1947 tại Hoa Kỳ.
Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết luận giống như của tiến sĩ J. B. Rhine.
Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tỏa mọi điều nghi ngờ về tính chất có thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn của con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng minh được rằng hiện tượng thần nhãn là một điều có thật, còn việc nó hoạt động ra sao và phát sinh từ những yếu tố nào thì người ta hoàn toàn không biết gì cả. Vì thế, người ta vẫn chưa thể vận dụng được năng khiếu đó trên địa hạt thực tế.
Thử tưởng tượng, nếu con người có thể tạo ra được cái năng khiếu phi thường đó, thì nó sẽ giúp ta nhìn thấy được những gì xảy ra trong không gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt thường. Khi đó, con người sẽ có được một phương thức mới cực kỳ hiệu quả để thu hoạch những điều hiểu biết về vũ trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao. Sự khôn ngoan khéo léo đã giúp ta chinh phục một phần nào không gian và tác động rất nhiều vào thế giới vật chất. Nhưng dù có được sự khôn ngoan khéo léo đó, xét cho cùng thì chúng ta vẫn là một sinh vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dầu có được những thành công nhất định trên địa hạt vật chất, con người vẫn còn phải bất lực trên rất nhiều lãnh vực. Mặc dầu đã thu hoạch được những kết quả nhất định trên các lãnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, con người vẫn chưa tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà mỗi người đều phải chịu đựng từ khi sinh ra cho đến lúc từ giã cõi đời.
Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật về năng lượng nguyên tử, điều đó là một bước đột phá trong việc kiểm soát thế giới vật chất. Nhưng có lẽ phải nhờ vào chính những sự khám phá gần đây về khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức, con người mới có thể tiến sâu hơn nữa vào lãnh vực nội tâm của chính mình.
Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn quan trọng của đời người, chẳng hạn như những lý do vì sao con người sinh ra ở thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ mà con người phải chịu đựng là gì.
Chương 2
Ông Edgar Cayce Dùng Thần Nhãn Để Khám Bệnh
Thật là một điều lý thú khi biết rằng năng khiếu thần nhãn có thể giúp ta làm được những điều phi thường. Nhưng càng lý thú hơn nữa khi ta được biết rằng trong thời đại này có một người đã dùng năng khiếu thần nhãn một cách hữu ích trên địa hạt sưu tầm cũng như trên phương diện thực tế. Người ấy là ông Edgar Cayce. Trong những năm cuối đời ông Cayce, người ta gọi ông là “con người phi thường ở Virginia Beach”. Đó là một danh hiệu có phần cường điệu, vì tuy có hàng trăm người đã được ông chữa khỏi bệnh trong những điều kiện thật lạ lùng, nhưng ông không phải là một người làm “phép lạ”, hiểu theo ý nghĩa thông thường của từ ngữ này.
Không hề có chuyện đặt bàn tay truyền điện hay làm cho bệnh nhân quăng nạng gỗ sau khi sờ nhẹ vào vạt áo. Những sự “nhiệm mầu” của ông Cayce chỉ là sự khám đúng căn bệnh, mà thường là những bệnh nhân ở cách xa ông đến hàng ngàn cây số! Ngoài ra, năng khiếu thần nhãn của ông chỉ hoàn toàn khai mở trong giấc ngủ thôi miên, đó là một điều đáng được sự chú ý của những nhà chữa bệnh theo khoa tâm lý, thường dùng giấc ngủ thôi miên để chữa bệnh hoặc làm phương tiện nghiên cứu tiềm thức con người.
Một trong những thí dụ đáng kể nhất về cách xử dụng thần nhãn của ông Cayce là trong trường hợp sau đây:
Một người con gái ở Selma, thuộc tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ, thình lình bị mất trí và được đưa vào một nhà thương điên. Người anh cô ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy ông Cayce giúp đỡ. Ông Cayce nằm trên giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó, ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của một người. Người đó bảo ông nhìn vào thể xác của người thiếu nữ và khám bệnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, ông Cayce bắt đầu nói, cũng giống như bất kỳ người nào khác trong trạng thái thôi miên, khi nhận được yêu cầu của người dẫn dụ. Tuy nhiên, có điều khác hơn những người chịu thôi miên là ông Cayce bắt đầu diễn tả tình trạng thể chất của người bệnh, dường như cặp mắt ông có quang tuyến X. Ông cho biết rằng người con gái ấy có một cái răng cấm mọc ngược và ép vào một mạch máu thông lên bộ não. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để mạch máu kia được giải tỏa thì bệnh nhân sẽ trở lại trạng thái bình thường.
Theo sự chỉ dẫn đó của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng người con gái thì thấy quả có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đưa đến nha sĩ để nhổ cái răng ấy đi thì người con gái liền hết bệnh điên.
Một thí dụ khác rất lạ lùng là: Có một thiếu phụ ở tỉnh Kentucky bên Hoa Kỳ sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo uột luôn. Khi được bốn tháng, nó bị chứng động kinh rất nặng, đến nỗi ba vị bác sĩ săn sóc cho nó, trong đó có người cha của đứa trẻ, đều lo ngại rằng nó sẽ không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đã tuyệt vọng, bèn đến nhờ ông Cayce khám bệnh cho nó.
Sau khi rơi vào trạng thái thôi miên, ông Cayce bảo đem cho nó uống một liều thuốc belladona (atropine) và kèm theo sau đó, cho uống một loại thuốc trừ độc. Những vị bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bệnh này, vì belladona là một loại thuốc cực độc. Nhưng bà mẹ đứa trẻ tin tưởng vào ông và nhất định tự mình đưa thuốc ấy cho con bà uống. Ngay tức khắc, chứng động kinh dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều thuốc trừ độc, đứa trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đã được cứu sống và khỏi bệnh.
Những thí dụ trên đây, cùng với hàng trăm thí dụ khác, không phải là những trường hợp chữa khỏi bệnh bằng “đức tin”. Những trường hợp mà người bệnh được chữa khỏi cấp thời như những trường hợp kể trên chỉ là một số ít. Trong hầu hết những trường hợp khác thì người bệnh được điều trị một cách cụ thể, có khi lâu dài, và cách điều trị gồm có thuốc men, phẫu thuật, kiêng cữ món ăn, dùng nhiều sinh tố, chữa trị bằng điện, xoa bóp hay tự kỷ ám thị.v..v… Người thực hiện các biện pháp điều trị đó là các bác sĩ chuyên khoa, còn ông Cayce chỉ đóng vai người chẩn đoán – theo cách của ông – và đưa ra các chỉ dẫn điều trị.
Những trường hợp khám bệnh bằng thần nhãn của ông Cayce đều được ghi chép trong những hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Tất cả có đến ba chục ngàn hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và sẵn sàng được dùng làm tài liệu cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm. Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên bản ghi lại chi tiết các cuộc khám bệnh bằng thần nhãn, có ngày tháng rõ ràng; những thư thỉnh cầu của bệnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bệnh; những bức thư bày tỏ sự biết ơn của những bệnh nhân được chữa khỏi ở khắp nơi trên thế giới; những giấy chứng nhận của các bác sĩ; và những bản tốc ký chép lại lời nói của ông Cayce thốt ra trong trạng thái bị thôi miên.
Những tập hồ sơ này là một kho văn kiện và tài liệu vĩ đại để chứng minh sự thật về hiện tượng thần nhãn (clairvoyance).
Ông Cayce sinh năm 1877 tại Hopkinsville, miền tây nam của tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo và không được học hành đến nơi đến chốn. Ông theo học trường làng đến hết bậc tiểu học, và mặc dầu trong thuở thiếu thời, ông đã tỏ ý muốn trở nên một giáo sĩ, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp tục theo đuổi sự học vấn.
Đời sống ở nông trại không thích hợp với ông; ông bèn chuyển đến sống ở tỉnh thành. Trước hết, ông làm nhân viên phụ trách một cửa hàng bán sách; sau đó ông làm nhân viên một hãng bảo hiểm.
Năm ông hai mươi mốt tuổi, một việc xảy đến bất ngờ làm thay đổi cuộc đời ông. Ông bị tắt tiếng nói vì một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy chữa đều vô hiệu quả, và không một vị bác sĩ nào có thể chữa cho ông khỏi bệnh. Do hậu quả này của căn bệnh, ông không thể tiếp tục hành nghề nhân viên bảo hiểm, ông bèn trở về nhà cha mẹ.
Ông sống ở đó gần một năm, không có việc gì làm cả và chứng bệnh của ông dường như không còn hy vọng chạy chữa. Sau cùng, ông quyết định theo học nghề chụp ảnh, vì nghề này không cần phải dùng đến giọng nói.
Trong khi ông đang tập sự nghề chụp ảnh, một nhà thôi miên đạo diễn tên là Hart đi ngang qua Hopkinsville và biểu diễn tại hí viện của thành phố. Nhà thôi miên Hart khi nghe nói ông Cayce bị chứng bệnh tắt tiếng, liền đề nghị chữa bệnh cho ông bằng khoa thôi miên.
Ông Cayce vui vẻ nhận lời. Trong trạng thái thôi miên, ông Cayce tuân theo mệnh lệnh của ông Hart và nói chuyện được như bình thường, nhưng khi vừa thức tỉnh thì ông lại bị tắt tiếng như trước.
Trong những giấc thôi miên kế đó, nhà thôi miên bèn dẫn dụ cho ông nghe rằng sau khi thức tỉnh, ông sẽ có thể nói chuyện được như thường. Phương pháp này gọi là “ám thị thôi miên”, tuy rằng rất hiệu nghiệm và đã từng giúp nhiều người thắng được những thói quen xấu như hút thuốc quá độ chẳng hạn, nhưng lại không có kết quả đối với chứng bệnh của ông Cayce.
Vì ông Hart phải chuyển sang một tỉnh khác theo chương trình đã định nên không thể tiếp tục những cuộc chữa trị thử nghiệm với ông Cayce được nữa, nhưng có một người tên là Layne ở cùng một địa phương, đã theo dõi cuộc chữa bệnh cho ông Cayce một cách thích thú, liền đề nghị ông Cayce để cho ông ta thử điều trị.
Ông Cayce vì muốn được khỏi bệnh bằng bất cứ phương pháp điều trị nào, liền chấp nhận. Ông Layne mới nảy ra một sáng kiến mới, là dẫn dụ cho ông Cayce trong trạng thái thôi miên, hãy tự diễn tả căn bệnh của mình. Thật lạ thay, ông Cayce tuân theo lời dẫn dụ đó và mô tả về căn bệnh của chính mình. Bằng một giọng nói bình thường, trong khi ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của ông Layne, ông Cayce bắt đầu diễn tả trạng thái của những sợi dây thanh trong cuống họng của ông. Ông nói:
– A! Chúng ta có thể nhìn thấy cái thể xác này! Vào lúc bình thường, nó không thể nói được vì những cơ thịt dưới cuống họng bị liệt bại một phần, do một sự căng thẳng thần kinh gây nên. Chứng bệnh này nguyên nhân là do một trạng thái tâm lý gây ra và ảnh hưởng đến phần thể chất. Muốn chữa hết bệnh, phải dùng cách dẫn dụ để làm vận chuyển sự lưu thông máu huyết ở bộ phận bị đau, trong khi người bệnh còn nằm trong trạng thái thôi miên.
Ông Layne liền dẫn dụ cho ông Cayce rằng sự lưu thông máu huyết của ông sẽ tăng thêm một cách mạnh mẽ ở chỗ cuống họng bị đau và bệnh trạng của ông sẽ thuyên giảm. Dần dần, phần trên của bộ ngực và cuống họng của ông Cayce thay đổi màu sắc, chuyển từ màu hồng nhạt sang màu đỏ thắm. Sau đó hai mươi phút, vẫn trong trạng thái thôi miên, ông Cayce ho lên mấy tiếng để lấy giọng và nói:
– Tốt lắm, căn bệnh đã dứt. Ông hãy dẫn dụ rằng sự lưu thông máu huyết sẽ trở lại bình thường và thể xác này hãy thức tỉnh.
Ông Layne liền làm y theo lời. Ông Cayce thức tỉnh và nói chuyện bình thường lần đầu tiên kể từ hơn một năm qua.
Trong những tháng sau đó, thỉnh thoảng căn bệnh lại tái phát đôi lần. Mỗi lần như thế, ông Layne lại dẫn dụ bằng cách thôi miên cho máu huyết lưu thông nơi cuống họng, và chứng bệnh lại dứt.
Câu chuyện của ông Cayce có lẽ đã chấm dứt với bấy nhiêu đó, nếu ông Layne không nhìn thấy những triển vọng sâu xa của trường hợp đặc biệt này, và tìm cách khai thác trên địa hạt thực tế. Lịch sử của khoa thôi miên là điều quen thuộc đối với ông và ông đã từng biết những trường hợp tương tự đặt dưới sự điều trị của ông De Puysegur ở Pháp. Ông này là vị kế nghiệp cho bác sĩ Mesmer,[7] người đã khám phá ra khoa nhân điện học.
Ông Layne nghĩ rằng, nếu ông Cayce có thể nhìn thấy xác thể của mình và tự khám bệnh lấy, thì điều tất nhiên là ông ấy sẽ có thể nhìn thấy thể xác của những người khác và khám bệnh cho họ.
Ông Layne bèn thí nghiệm điều này với chính ông, vì trong thời gian gần đó ông đang bị chứng đau dạ dày.
Cuộc thí nghiệm đã thành công mỹ mãn. Trong trạng thái thôi miên, ông Cayce mô tả trạng thái bên trong cơ thể ông Layne và đề nghị một vài phép điều trị. Ông Layne lấy làm vui mừng vô hạn, sự khám nghiệm của ông Cayce hoàn toàn đúng với những triệu chứng mà chính ông cũng đã nhận thấy và cũng phù hợp với sự khám nghiệm của nhiều vị bác sĩ khác. Cách điều trị của ông Cayce đưa ra gồm có việc áp dụng chế độ ăn uống thích hợp, kiêng cữ một số món ăn, sử dụng thuốc men và những phép tập thể dục chưa từng đem áp dụng cho trường hợp của ông từ trước.
Ông Layne bèn áp dụng theo cách điều trị ấy và chỉ trong vòng ba tuần ông nhận thấy rằng bệnh trạng của ông đã thuyên giảm rất nhiều.
Những sự kiện trên đây làm cho ông Cayce lưỡng lự phân vân không ít. Nhưng ông Layne lấy làm vô cùng hứng khởi và quyết định thử xem phép điều trị này có thể chữa khỏi bệnh cho những người khác hay không?
Hồi mới lên mười tuổi, ông Cayce đã bắt đầu đọc bộ Kinh Thánh (Bible) và đọc đi đọc lại hằng năm từ đầu đến cuối bộ sách ấy. Ông có ý nghĩ muốn trở nên một nhà chữa bệnh để cứu giúp các bệnh nhân đau khổ, cũng như các vị môn đồ của đấng Christ xưa kia. Về sau, ông có tham vọng trở nên một nhà truyền giáo như đã nói ở trên, nhưng hoàn cảnh của ông đã không cho phép. Và đến bây giờ thình lình ông nhận thấy cơ hội làm thầy chữa bệnh cho thiên hạ tự nhiên xuất hiện với ông. Nhưng ông còn băn khoăn lo ngại không dám nắm lấy cơ hội ấy, vì ông sợ rằng nếu trong trạng thái thôi miên ông lỡ nói một điều gì có hại và nguy hiểm cho tánh mạng kẻ khác thì sao?
Nhưng ông Layne liền bảo đảm rằng ông đừng sợ gì cả; chính ông Layne đã có hiểu biết khá nhiều về y học để có thể ngăn chặn những phép điều trị nào xét ra có hại cho bệnh nhân.
Ông Cayce bèn suy nghĩ rất lâu để quyết định một đường lối hành động. Sau cùng, ông bằng lòng giúp đỡ cho những người bệnh nào muốn được điều trị theo phương pháp của ông, nhưng ông nói trước một cách dứt khoát rằng đó chỉ là những cuộc thí nghiệm, và ông không đòi hỏi tiền thù lao chi cả.
Kế đó, ông Layne mới bắt đầu chép bằng tốc ký những lời mà ông Cayce thốt ra trong trạng thái thôi miên và gọi đó là biên bản, hay phúc trình những cuộc “Khám bệnh bằng thần nhãn”.
Điều rất lạ lùng trong những cuộc khám bệnh của ông Cayce, được thực hiện ngoài những giờ hành nghề nhiếp ảnh, là ông đã dùng những danh từ rất chuẩn xác về khoa sinh lý học và cơ thể học, mặc dầu trong lúc thức tỉnh ông không hề biết một chút gì về ngành y học và cũng không hề đọc các sách về y khoa. Điều càng lạ lùng hơn nữa đối với ông Cayce là những bệnh nhân do ông điều trị đều được thuyên giảm rất nhiều. Trường hợp của ông Layne không đủ thuyết phục ông, vì ông cho rằng có lẽ sự tưởng tượng đã làm cho ông Layne tưởng rằng mình khỏi bệnh. Về phần ông Cayce, việc ông đã thu hồi lại được giọng nói không thể cho là sự tưởng tượng, nhưng đó có thể chỉ là một sự ngẫu nhiên tình cờ.
Những sự nghi ngờ đó luôn ám ảnh ông trong những năm đầu khi ông mới bắt tay vào việc khám bệnh bằng thần nhãn, đã dần dần được giải tỏa trước sự kiện hiển nhiên là những bệnh nhân do ông điều trị đều được khỏi bệnh, thậm chí đến cả những trường hợp được xem là nan y và vô phương cứu chữa.
Dần dần, khả năng khám bệnh phi thường của ông Cayce được đồn đãi ra khắp mọi nơi. Một ngày kia, ông nhận được điện thoại của vị cựu Thanh tra Giáo dục thành phố Hopkinsville, mời ông đến chữa cho cô con gái của ông ta mới lên năm tuổi và đau ốm đã ba năm nay.
Bé gái này bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi và từ đó đến nay bị mất trí khôn. Những vị bác sĩ chuyên môn mà cha mẹ em đã mời đến khám bệnh cho em đều bó tay, không làm sao cứu em khỏi bệnh. Gần đây, em lại bị chứng động kinh ngày càng dữ dội thêm, và một vị bác sĩ chuyên môn đã tuyên bố rằng đó là một chứng bệnh thuộc về bộ não, không thể chữa khỏi.
Cha mẹ em đã tuyệt vọng, và đưa em về nhà để chờ ngày em trút hơi thở cuối cùng. Khi đó, một người bạn mới nói chuyện với cha mẹ em về ông Cayce và năng lực nhiệm mầu của ông. Khi ông Cayce nghe nói về trường hợp của cô gái nhỏ này, ông bằng lòng đi đến tận nơi để khám bệnh cho em ấy. Vì tình hình tài chánh của ông không được dồi dào lắm, nên ông phải nhận tiền lộ phí của gia đình bệnh nhân cung cấp. Đó là lần đầu tiên mà ông nhận một món tiền về công việc chữa bệnh để giúp đỡ kẻ khác.
Ông bèn lên đường, tuy rằng với một sự băn khoăn khó nghĩ trong lòng. Khi cô gái nhỏ được đưa đến trước mặt ông, ông càng cảm thấy một cách thấm thía sự mỉa mai cái vai trò của ông, một kẻ xuất thân từ gia đình nông dân tầm thường và không biết một chút gì về y học lại dám tự hào có thể chạy chữa cho một đứa trẻ mà những nhà chuyên môn giỏi nhất trong ngành y khoa đã phải bó tay không chữa nổi!
Ông cảm thấy hơi run rẩy khi ông nằm trên chiếc sofa trong phòng khách nhà ông thanh tra, và ngủ thiếp đi. Tuy nhiên, trong giấc ngủ thôi miên đó, ông không còn băn khoăn nghi ngại về chính mình nữa. Ông Layne có mặt ở một bên để dẫn dụ cho ông, và ghi chép bằng tốc ký những lời ông thốt ra như thường lệ.
Với một sự bình tĩnh và tự tin mà ông vẫn thường biểu lộ trong những cuộc khám bệnh trước đây, ông Cayce bắt đầu mô tả bệnh trạng của đứa trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đã bị té ngã từ trong xe văng xuống đất, và vi trùng bệnh cúm đã xâm nhập vào chỗ thương tích do tai nạn gây ra, điều này gây nên chứng động kinh. Ông cho biết thêm rằng, sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể làm giảm bớt áp lực và giúp cho em nhỏ được bình phục trở lại như thường.
Bà mẹ em bé xác nhận việc em bị ngã từ trong xe văng ra ngoài, nhưng vì không thấy có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngã xe lại có ảnh hưởng đến bệnh trạng của em bây giờ.
Ông Layne bèn áp dụng cách điều trị cho em theo lời dặn của ông Cayce và trong vòng ba tuần, em nhỏ đã hết chứng động kinh. Tình trạng trí não của em cũng khá hơn nhiều: em nói được tên của con búp bê, món đồ chơi thích nhất của em mà em vẫn chơi trước khi bị bệnh; sau đó em gọi tên của cha em và mẹ em lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay.
Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên bố rằng cô con gái nhỏ của họ đã hoàn toàn bình phục và đang cố gắng vớt vát lại thời gian đã mất trong những năm đen tối vừa qua.
Những sự việc xảy ra như trường hợp này đã đem đến cho ông Cayce một niềm tin rằng ông không hề sai lầm khi đem sử dụng khả năng lạ lùng của ông để giúp đỡ thế gian.
Danh tiếng của ông ngày càng lan xa. Báo giới đã bắt đầu quan tâm và đến phỏng vấn rồi đưa tin về ông. Kể từ đó, hằng ngày ông đều nhận được những cú điện thoại và điện tín của những bệnh nhân tuyệt vọng khẩn cầu ông chữa bệnh cho họ. Chính vì nhu cầu khám bệnh ngày càng mở rộng mà ông đã bắt đầu thử nghiệm rồi nhận thấy rằng mình có thể khám bệnh xuyên qua không gian, khi ở cách xa bệnh nhân đến hàng mấy trăm dặm đường, miễn là trong khi đi vào trạng thái thôi miên có người nói cho ông biết tên tuổi và địa chỉ rõ ràng của bệnh nhân.
Ông Cayce thường bắt đầu các cuộc khám bệnh từ xa bằng vài lời bình phẩm về thời tiết và hoàn cảnh địa phương nơi bệnh nhân ở, với một giọng nói thì thầm đại khái như:
– Ở đây sáng nay gió thổi mạnh quá!
– Đây là Winthertur ở Thụy Sĩ. À! Con sông này đẹp quá!
– Ồ! Người ấy đang đi, ông ta đi thang máy để đi xuống lầu!
– À! Những bộ áo pyjama này đẹp quá!
– A! Bà mẹ đang cầu nguyện ở phòng bên! v.v…
Những sự mô tả đó về sau luôn được xác nhận là đúng, lại càng giúp một bằng chứng xác thực về năng khiếu thần nhãn của ông Cayce.
Dầu rằng bệnh nhân ở cách xa hay ở gần một bên ông trong cùng một gian phòng, thì ông cũng dùng một phương pháp giống nhau không có gì thay đổi. Ông chỉ cần cởi giày, lên nằm trên giường một cách hoàn toàn thoải mái và nghỉ ngơi. Qua nhiều lần thực nghiệm, ông nhận thấy rằng cần phải nằm quay đầu về hướng bắc, chân về hướng nam. Ngoài một chỗ nằm và một cái gối dưới đầu, ông không cần dùng thêm một món gì khác!
Những cuộc khám bệnh có thể diễn ra ban ngày cũng như ban đêm, và bóng tối hay ánh sáng đều không có ảnh hưởng gì khác nhau. Vài phút sau khi nằm yên chỗ, ông liền ngủ thiếp đi. Khi đó, ông Layne, hoặc đôi khi là vợ ông Cayce, hoặc bất kỳ một người nào khác mà ông tin cậy và giao phó trách nhiệm này, mới đưa ra cho ông những lời dẫn dụ thích nghi. Câu dẫn dụ thông thường là:
– Bây giờ, ông sẽ thấy trước mặt ông (tên họ người bệnh), ở tại (địa chỉ tên đường, thành phố, xứ..) Ông sẽ khám nghiệm thân thể người ấy một cách chăm chú và cẩn thận, và ông sẽ nói cho tôi biết bệnh trạng cùng nguyên nhân của chứng bệnh là như thế nào. Ông cũng sẽ nói cách điều trị ra sao để chữa bệnh cho người ấy. Và ông sẽ đáp lại những câu hỏi của tôi đưa ra…
Vài phút sau, ông Cayce bắt đầu nói, và ông Layne hoặc cô thư ký Gladys Davis ghi chép lại bằng tốc ký những lời nói của ông. Sau đó, bản chép tốc ký được đem đánh máy lại rõ ràng để lưu giữ. Trong phần nhiều trường hợp, một bản sao được trao cho người bệnh hoặc thân nhân, hoặc người đỡ đầu hay vị bác sĩ điều trị, còn một bản sao bằng giấy màu vàng thì được lưu giữ trong hồ sơ về bệnh nhân.
Lời đồn đãi truyền khẩu và những bài tường thuật trên báo chí về năng khiếu thần nhãn của ông Cayce không bao lâu đã hấp dẫn sự chú ý của những tay thương gia có óc trục lợi. Một nhà buôn lớn trong ngành bông vải đề nghị trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm đô-la, liên tiếp trong hai tuần để nhờ ông “xem” giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu lúc ấy ông đang cần tiền, nhưng ông vẫn dứt khoát từ chối. Có những người khác muốn nhờ ông chỉ giùm những chỗ chôn giấu kho tàng, hoặc cho biết con ngựa nào về nhất trong một cuộc đua để họ đặt cược trúng giải.
Có nhiều lần, ông Cayce đã chịu nghe theo lời thiên hạ thỉnh cầu và làm thử những chuyện kể trên để rút kinh nghiệm và cũng để xem kết quả ra sao. Nhiều lần ông đã thành công và nói đúng kết quả của những cuộc đua cá ngựa; nhưng cũng có nhiều lần ông nói sai! Và những lần như thế, sau khi thức tỉnh ông luôn cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất mãn về mình!
Có một lần, người ta thuyết phục được ông hãy thử thời vận và dùng thần nhãn để khám phá các mỏ dầu hỏa ở tiểu bang Texas, nhưng ông không thu được kết quả gì đáng kể và đã hoàn toàn thất bại!
Sau cùng, ông nhận thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng năng khiếu thần nhãn của mình một cách hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa bệnh cho nhân loại, và chỉ vì mục đích duy nhất đó mà thôi chứ không bao giờ nên dùng thần nhãn để giúp cho ai hay cho chính mình trong việc kiếm tiền và sinh lợi! Thậm chí đến những sự quảng cáo ồ ạt để cầu danh, ông cũng đều dửng dưng không quan tâm đến.
Năm 1922, ông Chủ bút tờ báo Denver Post nghe tiếng ông Cayce và đã mời ông đến Denver. Sau khi đã dự kiến một buổi khám bệnh có kết quả hiển nhiên, ông ta liền đề nghị với ông Cayce một việc sau đây:
Ông ta sẽ trả cho ông Cayce mỗi ngày một ngàn đô-la và tự mình đảm nhiệm công việc tổ chức những cuộc trình diễn lưu động trong khắp nước, nếu ông Cayce bằng lòng đổi tên họ và khoác lấy một cái tên Ấn Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông phương, và khám bệnh trong trạng thái thôi miên sau một tấm màn che khuất để tránh những cặp mắt tò mò.
Nhưng ông Cayce quyết liệt từ chối.
Ông David Kahn, Giám Đốc Công ty Vô tuyến truyền hình ở Brunswich, và là bạn cũ của ông Cayce, trong những cuộc nói chuyện riêng tư, đã quảng cáo về việc làm của ông Cayce trong các giới bạn bè và các giới kinh doanh thương mãi; nhưng khi ông đề nghị mở một chương trình quảng cáo đại qui mô về công việc của ông Cayce trên đài truyền hình thì ông Cayce liền từ chối một cách quyết liệt.
Trong cuộc đời ông, ông không bao giờ chấp nhận cho ai làm bất cứ một sự quảng cáo nào về sự khám bệnh hay về những cuộc diễn thuyết công cộng của ông. Trong các cuộc đàm thoại với những người không được biết ông nhiều, ông không bao giờ nói về năng khiếu đặc biệt của mình, nếu người ta không hỏi ông về vấn đề đó. Có nhiều người ở cùng một tỉnh nhưng không hề biết gì về ông, ngoài việc ông làm nghề nhiếp ảnh. Ông sống với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng ông chỉ là một công cụ để giúp đỡ và đem lại sức khỏe cho những kẻ ốm đau khổ sở, và ông không bao giờ nên làm cho thiên hạ chú ý đến mình.
Trong những năm đầu, ông Cayce vẫn tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh, và luôn từ chối không nhận tiền thù lao về những cuộc khám bệnh của ông. Về sau, khi số người bệnh đến nhờ ông chạy chữa càng ngày càng đông, làm cho ông không thể nào tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới thấy mình có lý do để nhận tiền thù lao, vì ông còn phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đình. Tuy thế, đối với những người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bệnh không lấy tiền.
Không bao giờ ông Cayce đòi hỏi hoặc bắt buộc bệnh nhân phải trả tiền thù lao. Những bản sao các thư từ của ông hiện còn được cất giữ trong các tập hồ sơ ở Virginia Beach, nơi ông đến cư ngụ từ năm 1927, là những bằng chứng hùng biện cho lòng hy sinh, vô kỷ của ông. Mặc dầu trong những bức văn thư ấy có rất nhiều sự thiếu sót về văn phạm, cách chấm câu và cách hành văn, nhưng nó biểu lộ một cách sâu xa lòng mong muốn giúp đỡ và làm giảm bớt những nỗi đau khổ của nhân loại.
Trong những năm đầu tiên thực hiện việc khám bệnh, ông Cayce luôn luôn bị giày vò bởi sự hoài nghi. Có đôi khi, trong những cuộc khám bệnh, ông Cayce lặng thinh không nói gì trong giấc ngủ thôi miên. Có lẽ trong những lúc đó, năng khiếu thần nhãn của ông bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe hoặc trạng thái bất an của tâm hồn. Mặc dầu lúc thường, ông là một người dịu dàng và hiền lành, nhưng ông cũng có những lúc nóng giận thình lình; và hoàn cảnh gia đình buộc phải có nhiều lo âu về tài chánh. Một tâm trạng như thế lẽ tất nhiên là có thể làm tê liệt mất năng khiếu của ông.
Trong những trường hợp khám bệnh không có kết quả, người ta phải đình lại một lúc khác để đợi cho tình trạng sức khỏe và tâm lý của ông được bình phục trở lại, khi đó cuộc khám bệnh sẽ đem lại kết quả mong muốn.
Nhưng ông Cayce cũng bị xúc động một cách sâu xa nếu có bệnh nhân nào tỏ vẻ bất mãn vì cuộc khám bệnh không nói đúng theo bệnh trạng của họ, hoặc sự điều trị không có hiệu quả như họ mong muốn. Trong những trường hợp đó, ông Cayce xin lỗi một cách rất khiêm tốn trong những bức thơ dài, và giải thích rằng ông không hề tự hào là thần y có thể chữa khỏi bá bệnh; rằng có một phần chi tiết mà ông không được biết rõ, điều này làm cho những cuộc khám bệnh của ông trở nên kém hiệu lực và bất toàn; và đôi khi ông không nhìn thấy được rõ ràng mọi sự, như một cái máy thu thanh bắt sóng cũng có khi mạnh khi yếu, chứ không phải lúc nào cũng cho âm thanh một cách hoàn hảo. Và cuối thơ, ông kết luận:
– Mục đích duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ ông. Nếu tôi đã thất bại, thì tôi xin vui lòng trả tiền lại cho ông.
Ông gửi kèm theo trong thơ một ngân phiếu hoàn nguyên số tiền mà ông đã nhận được cho vị thân chủ. Thỉnh thoảng, sau nhiều tháng, chính những người thân chủ đó trở lại cho ông hay rằng một cuộc khám bệnh riêng về sau đã xác nhận những gì ông đã nói từ lúc đầu, mà họ đã nghi ngờ là không đúng như bệnh trạng của họ.
Cũng có đôi khi ông Cayce nhận thấy rằng những bệnh nhân đã than phiền về sự chữa bệnh không lành, chỉ vì họ đã cẩu thả không chịu áp dụng đúng theo cách điều trị của ông đưa ra, chẳng hạn như họ quên ăn uống kiêng cữ, hoặc không chịu uống thuốc đúng liều, hoặc xao lãng về phần tu dưỡng tinh thần mà ông đã bắt buộc họ phải noi theo.
Dầu sao ông cũng biết rằng những cuộc khám bệnh của ông không phải là tuyệt đối chính xác trong mọi trường hợp. Nhưng với thời gian qua, những cuộc khám bệnh của ông càng ngày càng trở nên rõ ràng và đúng đắn hơn trước, vì kinh nghiệm đã giúp cho ông biết cách sử dụng năng khiếu một cách hữu hiệu hơn. Những sự thất bại hoặc sai biệt xảy ra một đôi khi đã được bù đắp bởi những sự chữa lành bệnh một cách mầu nhiệm.
Một vị linh mục Thiên Chúa giáo người Canada đã được chữa khỏi bệnh động kinh; một người học trò trường tỉnh ở Dayton thuộc tiểu bang Ohio đã được chữa khỏi bệnh đau khớp xương; ở New York, một viên nha sĩ đã được chữa khỏi trong hai tuần chứng bệnh nhức đầu kinh niên đã trải qua nhiều năm; một thiếu niên ở Philadelphia mắc chứng bệnh đau mắt có cườm, là một chứng bệnh được xem là nan y, đã được bình phục khi một vị bác sĩ chữa trị theo lời chỉ thị của ông Cayce.
Chính những trường hợp chữa khỏi bệnh kể trên đã xảy ra rất nhiều lần làm cho ông Cayce bình nhật vốn là một người khiêm tốn, do dự, và cẩn thận rất mực, đã phải tin tưởng vào năng khiếu của chính ông, mặc dầu thỉnh thoảng vẫn có những sự khó khăn và một vài sai biệt nhỏ nhặt không đáng kể; và ông có thể tin rằng đó là một cái thiên tư đặc biệt của trời phú cho ông.
Năm 1942, do báo chí đua nhau nói về thân thế và sự nghiệp của ông Cayce, tên tuổi của ông đã vang dội khắp nơi ở Hoa Kỳ. Kết quả là có hàng triệu bức thư của người khắp bốn phương được gởi đến nhờ ông chữa bệnh, trong số đó có nhiều trường hợp rất đau thương và vô cùng khẩn cấp.
Ông Cayce không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bệnh nhân nào và không bao giờ ruồng bỏ một ai, đành phải định ngày khám bệnh cho từng người, và có người phải được ông hẹn trước đến mười tám tháng mới đến phiên khám bệnh.
Thay vì chỉ khám bệnh hai hay ba lần trong mỗi ngày, có khi ông đã khám bệnh đến tám lần, bốn lần vào buổi sáng và bốn lần vào buổi chiều. Làm việc trong giấc ngủ có vẻ dường như là một công việc thoải mái dễ dàng, nhưng sự thật ông Cayce đã phải mất rất nhiều sinh lực và sự căng thẳng gây nên bởi sự làm việc quá sức đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ông: Ông từ trần vào ngày 3 tháng giêng năm 1945, hưởng thọ sáu mươi bảy tuổi.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce đã chấm dứt, nhưng danh tiếng của ông không bao giờ mất. Nếu một người trở nên bất tử và lưu danh thiên cổ do những công trình phụng sự nhân loại thì người ta có thể nói rằng ông Cayce đã trở nên bất tử theo cách đó.
Chương 3
Những Bí Ẩn Của Đời Người
Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bệnh để cứu giúp mọi người, ông Cayce đã cứu chữa cho hàng mấy chục ngàn bệnh nhân, và điều này xác nhận sự thật về năng khiếu thần nhãn của ông. Với năng khiếu thần nhãn này, ông Cayce có thể nhìn thấu suốt tận trong nội tạng của người bệnh, những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người mà thông thường người ta không nhìn thấy được.
Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu thần nhãn có thể soi thấu vào bên trong cơ thể con người, thì chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ để nhìn thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí ẩn của đời người. Việc đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây.
Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, thuộc miền tây nam tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự nói chuyện về ông Cayce. Ông lấy làm thích thú và tò mò đến nỗi lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú ngụ.
Sau khi quan sát những cuộc khám bệnh của ông Cayce trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu thần nhãn của ông này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng, nếu một người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn giấu đối với cặp mắt phàm, thì người ấy chắc hẳn có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn thuộc về vũ trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay bộ máy tiêu hóa của người bệnh mà thôi. Chẳng hạn như những vấn đề: Trong tất cả mọi ngành triết học và tôn giáo thì ngành nào gần nhất với chân lý? Mục đích của đời người là gì? Giả thuyết cho rằng linh hồn con người bất diệt có đúng hay không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?
Liệu thần nhãn của ông Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy hay chăng? Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu trượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời, v.v… chưa từng thoáng qua trong bộ óc chất phác của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách mặc nhiên những giáo lý mà người ta giảng cho ông ở nhà thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là do lòng mong muốn giúp đỡ những kẻ bệnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên nghĩ đến việc dùng thần nhãn vào những mục đích khác hơn là chữa bệnh cho nhân loại, và điều này càng làm tăng thêm lòng hứng khởi của ông Cayce.
Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi được nêu ra. Vậy thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bệnh.
Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma nên đề nghị ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng thiêng liêng muốn kêu gọi ông vào những công việc phụng sự khác nữa.
Gần đây ông Lammers có chú ý đến khoa chiêm tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa chiêm tinh là đúng đắn thì nó có thể là một ngành khoa học nối liền con người với vũ trụ, và giúp chúng ta có thể hiểu được rõ ràng hơn về vũ trụ. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm thần nhãn của ông Cayce về khoa này.
Một ngày vào tháng mười năm 1923, khi ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số chiêm tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế, ông nói ra một câu lạ lùng:
– Thuở xưa, người này là một tu sĩ.
Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh con người thì câu nói ấy làm cho ông giựt mình chẳng khác nào như bị điện giật! Phải chăng câu ấy có nghĩa là thần nhãn của ông Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề luân hồi?
Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khám nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm nhiều điều khác.
Khi ông Cayce thức tỉnh, ông thấy ông Lammers đang bàn luận sôi nổi với cô thư ký Linden Shroyer về những lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng, nếu người ta có thể chứng minh thuyết luân hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lý học! Nếu ông Cayce tiếp tục thí nghiệm về điều này thì những cuộc quan sát của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng lý thuyết luân hồi thực sự diễn ra như thế nào. Chẳng hạn như mối liên hệ giữa luân hồi và khoa chiêm tinh là như thế nào? Và từ đó người ta có thể biết thêm nhiều điều về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người.
Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce quan sát thêm về vấn đề này. Mặc dầu ông Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc thí nghiệm.
Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đúng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí ẩn của đời người mà từ lâu ông đã khảo cứu, tìm tòi.
Theo kết quả những cuộc quan sát đó, khoa chiêm tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Linh hồn con người trải qua nhiều kiếp sống và được tiến hóa thông qua những cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ đời sống. Con người thâu thập kinh nghiệm trong cuộc sống và tích lũy nó trong tâm thức, rồi mang theo những điều đó vào những kiếp sống tiếp theo sau đó. Khoa chiêm tinh dựa vào những mối quan hệ giữa con người với vũ trụ để nhận biết được những chuyển biến quan trọng trong đời người. Tuy nhiên, khoa chiêm tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện tại chỉ đúng một phần nào thôi, chứ không hoàn toàn đúng, bởi vì có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người ta chưa khám phá được một cách trọn vẹn.
Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc quan sát thử nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Rồi sau đó những người tham gia tổ chức nghĩ rằng những gì họ muốn biết về tiền kiếp có thể sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một “lá số” chi tiết, và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn dụ thích nghi hơn. Vì thế, người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông Cayce hãy tự đưa ra một cách thức dẫn dụ thích nghi hơn đối với ông. Và đây là cách dẫn dụ mà ông Cayce đã đưa ra:
– Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày… tại… Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của người này và vai trò của ông ta trong cuộc đời là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của ông ta trong kiếp sống hiện tại này. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của ông ta với những chi tiết về tên tuổi, quê quán và thời kỳ nào đã trải qua những tiền kiếp đó. Và ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa tâm linh của người này.
Từ đó, những cuộc quán sát bắt đầu chuyển hướng nhằm vào những tiền kiếp của đương sự. Những cuộc quan sát đặc biệt này được gọi là những cuộc “soi kiếp”, để phân biệt với những cuộc khám bệnh, chỉ nhằm quan sát cơ thể của bệnh nhân nhằm mục đích chữa bệnh mà thôi.
Đối với hai loại quan sát kể trên, ông Cayce đều áp dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này: Mỗi khi ông Cayce tuần sự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp thì ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ dội!
Chính ông cũng đã tự khám nghiệm mình để tìm nguyên nhân của sự chóng mặt, thì ông nhận thấy rằng cần phải đổi hướng nằm quay đầu về hướng bắc, chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải thay đổi như thế thì ông không giải thích được, mà chỉ cảm thấy như vậy là thuận dòng “nhân điện” trong người ông.
Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ ông đã từng làm một vị tăng lữ bậc cao ở các đền cổ bên Ai Cập và có nhiều năng lực thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và thói ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông bị thương trong một trận chiến trên sa mạc và bị bỏ nằm lại trên bãi cát, vì những người đồng đội tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình, không có nước uống, không lương thực và không một mái che, ông đã chịu khổ rất nhiều suốt ba ngày ba đêm, đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông có khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của thể xác. Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đúng đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước.
Cuộc đời hiện tại luôn là một thử thách lớn cho bất cứ ai. Ông Cayce đã có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha để cứu chuộc những lỗi lầm trong quá khứ là thói kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích sắc dục. Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng rất lớn, và vì thế người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn hơn về vấn đề này.
Ông liền đề nghị ông Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và tình nguyện đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình ông, gồm bà Cayce, hai người con trai và cô thư ký Gladys Davis. Cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia đình ông. Cả gia đình đều bằng lòng chấp thuận.
Khi họ được cho biết về những gì xảy ra thì họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce là: lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú cho đến say mê.
Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu cũng như mỗi đức tánh đều có nguyên nhân sâu xa từ trong tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai, ông nói:
– Trong bốn tiền kiếp, con là một nhà khảo cứu khoa học; con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi.
Khi soi kiếp cho người con trai kia, ông nói:
– Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều bất lợi trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh quốc. Kiếp này con nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn.
Những sự diễn tả tánh tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người lạ như ông Lammers, cô Linden Shroyer hoặc những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng.
Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về chính ông và ông đã tự xét lương tâm mình một cách nghiêm khắc. Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu thần nhãn của mình, bằng những cuộc khám bệnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc phụng sự chính đáng và thiêng liêng chứ không phải là một điều tà vạy.
Nhưng những tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như… “phản đạo”. Làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là những điều đúng với sự thật? Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng vì ông vốn sinh trưởng trong một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lý tỏa chiếu từ những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn giáo và Phật giáo nói về vấn đề luân hồi.
Hơn nữa, chính danh từ này đối với ông cũng không được hấp dẫn cho lắm, vì ở phương Tây thời ấy người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết luân hồi. Chính những cuộc soi kiếp đã giải tỏa mọi sự nghi ngờ cho ông Cayce. Trong những cuộc quan sát về các tiền kiếp, ông Cayce được biết rằng luân hồi không chỉ đơn giản là sự đầu thai trở lại làm thú vật, và càng không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hàng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các xứ Phật giáo tin tưởng vào thuyết ấy một cách sáng suốt và lấy đó làm nền tảng cho mọi sự ứng xử trong đời sống hằng ngày của họ.
Tự nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á châu cũng chủ trương thuyết Thoái bộ luân hồi, cho rằng con người tội lỗi tái sinh làm kiếp thú, nhưng đó chỉ là một chủ trương sai lầm phiến diện về thuyết luân hồi. Vài tôn giáo cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một chân lý căn bản và trọng đại.
Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng luân hồi có nghĩa là khả năng tiến hóa liên tục về tâm linh dành cho mọi sinh vật: sự tiến hóa của tâm thức con người trải qua nhiều kiếp sống, khi thì làm đàn ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm một giống dân khác.v.v… nhưng với sự tu dưỡng hướng thiện thì sẽ luôn vươn lên mãi cho đến khi tâm thức đạt tới sự toàn thiện.
Tâm thức con người khi biết hướng thiện qua từng kiếp sống cũng ví như một nghệ sĩ sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm khác, nhưng vẫn luôn trau giồi và phát triển tài nghệ, kinh nghiệm nghề nghiệp của mình.
Nhiều bậc hiền triết và các nhà thông thái, trí thức của Âu Tây cũng chấp nhận thuyết luân hồi và đã viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin, Giordano Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer.
Về vấn đề này, ông Cayce bày tỏ ý kiến:
– Những điều đó hiển nhiên là đúng sự thật rồi; nhưng còn giáo lý của đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết luân hồi thì phải chăng điều đó có nghĩa là tôi phủ nhận đấng Christ và giáo lý của Ngài?
Ông Lammers đáp:
– Không phải vậy đâu. Ta hãy xét lại giáo lý căn bản của đấng Christ thì rõ. Một luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa câu hỏi đó cho đấng Christ, và Ngài đáp rằng: “Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hãy thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà tiên tri.” (Mathieu 22:35-40.) Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến hóa qua tu dưỡng trong thuyết luân hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: “Đừng làm hại kẻ khác nếu không muốn kẻ khác làm hại mình.” (Kinh Pháp cú, kệ số 129, 130) Và những Thánh kinh của Ấn giáo cũng dạy rằng: “Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi không muốn người khác làm cho ngươi.” Ấn giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có sự khác biệt, dị đồng giữa sự bác ái và sự tiến hóa tâm linh trong luân hồi. Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luân hồi nhiều hơn mà thôi, chứ không cho rằng hai điều ấy tương phản nhau.
Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên mười tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Kinh Thánh (Bible) và ông rất lấy làm say mê. Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần, suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có nói về luân hồi. Vậy thì tại sao bộ Kinh Thánh, và điều quan trọng hơn nữa, là đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này? Ông Lammers nghĩ rằng:
– Có lẽ đấng Christ có nói về vấn đề luân hồi. Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho Ngài có dạy thuyết luân hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của người đời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền.
Tuy nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề luân hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Baptiste là Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không dùng chữ luân hồi tái sinh, nhưng Ngài đã nói một cách rõ ràng không úp mở, rằng: “Elie đã trở lại…” Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài đang nói với họ về Thánh Jean-Baptiste. Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: “Bạch thầy, ai đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh ra đã bị mù?”
Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm chứa ý nghĩa về sự luân hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, chương 13, câu thứ 10: “Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao.” Câu ấy ngụ ý rằng có một định luật quả báo tác động từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đã dần dần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lý của đấng Christ không có nói về vấn đề luân hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên lệch?
Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ, người ta thấy rằng có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết luân hồi trong những tác phẩm của họ, và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin, Thánh Jerome, Clement d’Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho mười hai vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?
Theo ông Lammers thì đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết luân hồi nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn bản của đạo Gia Tô. Những điều kể trên đã giải tỏa bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Cayce, vì ông luôn sợ rằng ông đã dùng những năng lực lạ lùng của mình một cách trái đạo, tức là đi ngược với tôn giáo của ông.
Ngoài ra, ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ khác về năng lực của mình, nhưng điều này lại có một cơ sở khoa học. Một thí dụ là làm sao giải thích sự gia tăng dân số quá lớn trên thế giới hiện nay nếu người ta cho rằng tất cả linh hồn đều đã sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt tăng thêm đó ở đâu mà ra?
Tất cả gia đình ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô thư ký Gladys Davis và Linden Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy. Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự quan sát bằng năng khiếu thần nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi những cuộc quan sát đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài liệu ở các sách trong thư viện quốc gia.
Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới thì tìm ra một lời giải thích cũng không phải khó. Một người trong nhóm cho rằng, dầu sao chúng ta cũng không biết chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khảo cứu gần đây có đề cập đến những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantide nay đã biệt tích. Ở nhiều nơi như Mexico, Ai Cập và một phần của Đông phương, những di tích khảo cổ đã xác nhận rằng có nhiều nền văn minh lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những bãi sa mạc hoang vắng. Như thế, người ta có thể hình dung được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sử, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng chưa hẳn đã có sự thay đổi tổng số các sinh linh trong vũ trụ. Có thể rằng có hàng triệu tâm thức vẫn trôi giạt trong cõi vô hình, trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không tạo ra đủ điều kiện cho họ đầu thai làm người.
Tuy ông Cayce vẫn chưa hết hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về sự giải thích hợp lý như trên. Nhưng còn vấn đề châu Atlantide cũng là một vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là có thật? Hay đó chẳng qua chỉ là một chuyện hoang đường?
Những cuộc quan sát bằng thần nhãn của ông Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mỉ và với rất nhiều chi tiết. Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật về sự hiện hữu trước đây của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần chúng ngày nay không còn chú ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết về sự hiện diện của châu Atlantide. Dầu sao, một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ túc cho nhau để chứng minh vấn đề.
Ông Cayce đã đọc một quyển sách nhan đề “Châu Atlantide, một thế giới thời kỳ tiền sử” của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng những cuộc quan sát của ông đã mô tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy.
Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên, là những vấn đề được nêu ra trong các cuộc quan sát bằng thần nhãn, đã giúp cho ông Cayce dần dần có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót do trình độ học vấn.
Dần dần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tò mò xen lẫn với óc phê phán, ông bắt đầu phân tách những cuộc quan sát trong trạng thái thôi miên để kiểm soát nó một cách hoàn hảo hơn.
Trước hết, ông nhận thấy rằng những cuộc quan sát ấy đều có sự mạch lạc và liên quan chặt chẽ với nhau. Không bao giờ một cuộc quan sát này lại cho kết quả tương phản với một cuộc quan sát khác, dầu là cách nhau bao lâu cũng vậy. Vì thế, một người có thể được ông quan sát lần thứ nhì nhiều tháng hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất nhưng những tài liệu ghi nhận kết quả đều ăn khớp với nhau và nối tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào người ta lật ra một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở trong lần đọc trước.
Phần nhiều những cuộc “soi kiếp” giúp đưa ra được những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide. Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bổ khuyết cho nhau và trở nên hoàn chỉnh hơn. Do đó, mỗi cuộc soi kiếp thường lặp lại một phần những gì đã được nói ra trong lần trước, rồi thêm vào một số chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện.
Không những các cuộc soi kiếp đều cho kết quả phù hợp với nhau, mà còn xác nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dầu cho đó là những sự việc bí ẩn thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ, một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người kia trong tiền kiếp đã từng làm người “phóng ghế”. Ông Cayce không hề biết “phóng ghế” nghĩa là gì. Chỉ khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó chỉ cho một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ. Người ta trói chặt những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh, gọi là “phóng ghế”.
Một thí dụ khác là trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước anh ta đã sống ở Pháp. Tại đây, anh ta đã gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học.
Ông Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng không tin rằng ông này đã từng sống ở bên ngoài nước Mỹ. Sau khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các danh nhân, ông mới biết rằng ông Fulton quả thật đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích trong các hoạt động của ông.
Ngoài những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng những sự phân tách tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khám bệnh, dầu cho đương sự có quen biết với ông hay không, điều đó không quan hệ gì cả. Họ có thể là những người hoàn toàn xa lạ, hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, năng lực cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp.
Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Cayce có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ về tánh chất và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ. Một cuộc soi kiếp vào ngày sinh của một đứa trẻ tại Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được.
Một trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp cho biết trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng lúc với sự thích thú đặc biệt về ngành y học. Vào năm tám tuổi, nó đã bắt đầu mổ xác những con thú đã chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, nó đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển y khoa, và năm mười hai tuổi, nó nói rõ với cha mẹ rằng nó rất muốn vào trường Đại học John Hopkins để theo ngành y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh ở New York; mẹ nó là một nữ diễn viên. Lúc đầu, cha mẹ đứa bé đều phản đối ý định theo học y khoa và khuyên nó hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ vẫn cương quyết giữ lập trường và sau cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay nó đang học lớp dự bị về khoa Sinh hóa tại một trường Đại học lớn ở miền đông Hoa Kỳ.
Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu thần nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biệt của nó sẽ biểu lộ ra ở kiếp này.
Những thí dụ kể trên cho thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một giá trị rất lớn trong việc tiên đoán tương lai, không những của những đứa trẻ sơ sinh mà còn cho cả những người lớn. Một cô thư ký điện tín viên ở Bưu điện thành phố New York vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín với những lỗi sai lệch một cách lạ lùng mà cô thường xuyên mắc phải nhiều lần khi gửi đi. Khi được nghe biết về ông Cayce, cô liền quyết định nhờ ông soi kiếp cho cô. Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ mất thì giờ vô ích khi theo đuổi nghề điện tín viên, và tốt hơn cô nên học ngành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước cô đã là một nghệ sĩ có tài trong ngành này. Cô ấy từ trước chưa hề có ý nghĩ sẽ theo đuổi một ngành nghệ thuật nào, dầu là hội họa hay bất cứ ngành nào khác. Nhưng cô ấy có đủ niềm tin vào đề nghị của ông Cayce nên đã ghi tên học thử ở một lớp hội họa. Cô vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình rất có năng khiếu và đã thành công mau chóng trong ngành hội họa, đồng thời cô cũng cải thiện rất nhiều cả về nhân cách.
Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững lòng tin hơn trước khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì tạo ra được những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp hơn; những người khác nhận được những lời chỉ dẫn có thể giúp họ san bằng nhiều sự khó khăn trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội.
Những điều nói trên đã dần dần thuyết phục ông Cayce về tính cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn cũng như sự giải thích mà nó đưa ra về số phận con người hay ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng điều làm cho ông tin tưởng hơn hết là tinh thần Gia Tô giáo tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết luân hồi.
Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn trong Kinh Thánh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau:
– Ngươi gặt hái những gì ngươi đã gieo.
Và:
– Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi.
Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như:
– Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo với Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy.
Và:
– Con người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những tội lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác.
Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bệnh tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp trước.
Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết, họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Vì sao nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau? Nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ như Thời đại Atlantide, Đế quốc La Mã, Thời kỳ Thánh chiến (Croisades) và lúc khởi đầu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có Châu Atlantide, Ai Cập, La Mã, nước Pháp thời vua Louis 14, 15 và 16, và cuộc nội chiến ly khai (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng còn có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Miến Điện, Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và nhiều xứ khác…
Nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau. Theo ông Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những tâm thức thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường ra đời cùng lúc ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những tâm thức khác lại tái sinh theo cách tuần tự. Sự luân phiên tái sinh thành từng nhóm như vậy là do sự tương đồng về nghiệp lực, cũng giống như sự thay phiên của những toán thợ có cùng một phận sự trong một công xưởng.
Vì thế, ông Cayce tin rằng phần nhiều những tâm thức đang tái sinh trên thế gian hiện nay đều đã cùng sống với nhau trong những thời kỳ quá khứ.
Ngoài ra, những chúng sinh nào đã từng có những mối liên hệ gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước.
Một câu hỏi khác được nêu ra:
– Những nhận xét đó dựa vào đâu mà có?
Câu trả lời là: Khi ông Cayce rơi vào trạng thái thôi miên, ông có khả năng đưa ra những nhận xét đó dựa vào hai yếu tố. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này lưu giữ ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm cả những kinh nghiệm trong những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong phần sâu kín nhất của tiềm thức, gọi là tàng thức, nằm ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của khoa tâm lý học hiện đại. Tàng thức của một người là lãnh vực có thể được thăm dò bằng ý thức của người khác, khác với trạng thái ý thức, vốn luôn có những đề kháng đối với mọi sự thăm dò từ bên ngoài, tương tự như trong một thành phố lớn, người ta có thể đi từ nơi này đến nơi kia bằng những đường ngầm dễ dàng hơn những phương tiện khác ở trên mặt đất.
Vì thế, trong trạng thái thôi miên, ông Cayce có thể nhìn sâu vào tàng thức của đương sự một cách trực tiếp. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là phần nào, với những phát minh của khoa phân giải tâm lý (Psychanalyse) về cuộc đời và về trạng thái vô thức.
Nhưng còn yếu tố thứ hai đã giúp ông Cayce đưa ra các nhận xét thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những “ký ức của không gian” (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong trạng thái thôi miên của ông như akasha: danh từ; akashique: tính từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau: “Akasha là danh từ dùng để chỉ một trạng thái vật chất tối sơ và căn bản của vũ trụ. Loại vật chất ấy có tác dụng như một kiểu băng từ tính trên đó ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự kiện đã từng xảy ra trong vũ trụ.
Chính nhờ có sự lưu giữ trong kiểu “ký ức không gian” đó mà những ai có năng khiếu thần nhãn có thể nhìn ngược về dĩ vãng như đọc một quyển sách mở ra từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đã cách xa bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Loại vật chất akasha có chức năng tương tự như một máy ghi hình vĩ đại của vũ trụ. Khả năng nhìn thấy ký ức của thiên nhiên dựa trên loại “máy ghi hình” đó vốn tiềm tàng ở tất cả mọi người, nhưng sự bộc lộ của nó tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm của mỗi người, và cũng tùy nơi việc chúng ta có thể tự đặt mình vào một trạng thái thụ cảm thích nghi đến mức nào, cũng giống như khi ta bắt đúng tần số vô tuyến trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy.
Trong những lúc thức tỉnh, ông Cayce không thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi để “bắt đúng tần số” như nói trên, nhưng trong trạng thái giấc ngủ thôi miên thì ông có thể làm được điều ấy.
Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt ra trong trạng thái thôi miên thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông luôn trả lời giống như nhau, có khi thì dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất akasha cũng có thể gọi là “ký ức của vũ trụ”. Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất akasha. Nền triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn là hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp thần giao cách cảm; và những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận.
Vậy tại sao chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất akasha, cũng là một quan niệm khác của triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, tuôn tràn như suối chảy trong những cuộc quan sát sưu tầm về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ đầu Công nguyên? Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng, mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của lịch sử, được ẩn giấu, tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình huyền bí của vũ trụ?
Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về điều ấy, mà bởi vì nó đã được xác nhận trong những cuộc quan sát bằng thần nhãn; và những cuộc quan sát của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy.
Có lẽ việc dùng thần nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng hạn như sóng vô tuyến hay tính chất phóng quang của chất radium; như nguyên tử lực hoặc trí nhớ của bộ óc con người và sự truyền cảm của hệ thần kinh.
Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một cách lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng hai mươi hai năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi, là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khám bệnh bằng thần nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho khoảng hai ngàn năm trăm người.
Cũng như những cuộc khám bệnh bằng thần nhãn, những cuộc soi kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thư từ văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ.
Những ai muốn tìm biết sự thật về những điều này còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay đang còn sống và đã từng được ông Cayce soi kiếp. Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tính cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này.
Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về thuyết luân hồi, là một nguyên tắc tồn tại căn bản trong vũ trụ. Và nếu tất cả những yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhất nó cũng đáng để cho ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học.
Có biết bao cuộc phát minh lớn lao vĩ đại mà ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giả thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết tương đối, ông đáp:
– Tôi chỉ thử đặt một nghi vấn về một định lý.
Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý và triết lý, đem đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn về cuộc đời.
Trong khoảng hai mươi hai năm đó, có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu thần nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho những câu hỏi sau đây:
– Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?
– Nguyên nhân vì đâu mà tôi phải chịu sự đau khổ này?
Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước của họ cũng tầm thường như kiếp này, và không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là kết quả của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ vô thủy.
Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bệnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự tác động của một định luật căn bản gọi là luật nhân quả. Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài học nhân quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cũng như tìm thấy sự thăng bằng và an tĩnh của tâm hồn.
Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những cuộc soi kiếp đó, người ta cũng còn phải nhìn nhận sự kiện là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của hầu hết mọi người về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việc kể trên không phải là đem đến cho ta một giả thuyết mới, vì đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều lục địa trên quả địa cầu. Nhưng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều sau đây:
Thứ nhất, đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ người ta có được những bản phúc trình đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của một số đông người.
Thứ hai, đây là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, những bản phúc trình đó được ghi chép và sắp xếp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người đều có thể tra cứu, sưu tầm.
Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã hợp nhất triết lý Đông phương với những giáo lý Gia Tô, và làm cho cả hai nền triết lý Đông Tây càng thêm phần sống động. Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông phương và Tây phương.
Những cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce cũng đã tổng hợp khoa học và tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cảnh giới tinh thần chịu sự tác động của luật nhân quả một cách đúng đắn cũng giống như thế giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ như nhiều người lầm tưởng, mà là do những tư tưởng và hành động sai lầm trong quá khứ.
Nó cũng chỉ ra rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng Đế hay là do ảnh hưởng hoàn toàn của sự di truyền, mà chỉ là kết quả của những hành vi và cung cách ứng xử của mỗi người trong những kiếp trước. Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích rèn luyện chúng ta trên con đường hướng thiện; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là những bài học quí giá mà nếu chúng ta biết cách nhận lấy trong trường học lớn của thế gian thì trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đi đến mục đích minh triết và toàn thiện.
Chương 4
Vài Loại Quả Báo Thể Xác
Những người tàn tật, đui què, câm điếc, những người bị các chứng bệnh nan y, đó là những thí dụ rõ rệt nhất về sự đau khổ của người đời. Đứng trước những cảnh đau khổ đó, chúng ta cảm thấy khơi dậy một lòng trắc ẩn sâu xa và thấm thía. Khi một trong những cảnh khổ đó xảy đến cho ta, hoặc khi chúng ta gặp phải những cảnh ngộ đắng cay, trái ý, chúng ta thường đâm ra hoài nghi về ý nghĩa thực sự của cuộc đời. Chúng ta thường tự hỏi:
– Tại sao tôi phải chịu sự đau khổ này? Tại sao những cảnh khổ này lại xảy đến cho tôi?
Anh Dennis là một người hiền lành và đức hạnh hơn người. Anh đã bị mất hết gia tài sản nghiệp và tất cả những đứa con anh cũng đều chết cả. Anh chịu đựng những cảnh khổ đó một cách kiên nhẫn và không hề phàn nàn rên siết. Nhưng khi anh bị một chứng bệnh kỳ quái làm cho toàn thân nổi lên những mụt nhọt lở loét, ghê tởm, thì anh bắt đầu nguyền rủa Thượng Đế và lần đầu tiên anh kêu thét lên trong cơn tuyệt vọng vì không biết được nguyên do những sự đau khổ đã xảy đến cho mình:
– Ai có thể nói cho tôi biết những nguyên nhân ấy, rồi tôi sẽ im lặng và an phận. Tôi đã gây nên những tội lỗi gì?
Khi nói rằng nguyên nhân sự đau khổ là do những hành động sai lầm, tội lỗi đã gây ra trước đây thì người thời nay thường cho đó là một điều dị đoan, di sản của những tôn giáo cổ xưa đã lỗi thời. Ít người chịu suy nghĩ và nhìn nhận điều đó.
Tuy vậy, theo những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì tội lỗi và đau khổ đi liền với nhau như bóng với hình, và giữa nhân với quả vốn có một sự liên quan chặt chẽ.
Để hiểu rõ quan niệm trên, vốn là nền tảng cho những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ta cần tìm hiểu ý nghĩa của danh từ karma, là danh từ duy nhất giải thích ý nghĩa vấn đề nhân quả. Karma là một danh từ Phạn ngữ, có nghĩa là hành động. Nhưng theo ý nghĩa triết học, thì nó được định nghĩa là nghiệp, hay nghiệp quả, và được hiểu như là luật nhân quả, là một định luật có tác dụng chi phối mọi sự việc xảy ra trong vũ trụ.
Ông Emerson là người đã từng hấp thụ và tin tưởng nền triết học Ấn Độ, đã gọi đó là luật thừa trừ. Đấng Christ cũng đã nói về luật ấy một cách gọn gàng giản dị trong câu:
– Ngươi sẽ gặt những gì ngươi đã gieo.
Định lý khoa học của Newton nói rằng:
– Mỗi hành động đều gây nên một phản ứng tương đương và ngược chiều, áp dụng trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce làm cho người ta thích thú say mê vì nó khám phá ra tận nguồn gốc của những bệnh tật đau khổ trong kiếp hiện tại, truy nguyên ra từ những hành động trong những kiếp quá khứ, và làm sáng tỏ một cách rõ ràng cái quan niệm trừu tượng về nhân quả. Một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những trường hợp đã quan sát cho biết rằng có nhiều loại quả báo khác nhau.
Một trong những loại đó có thể gọi là quả báo tương tác, nghĩa là một hành động gây tổn thương cho kẻ khác, kết quả cũng sẽ tác động ngược lại đối với người thực hiện một cách tương ứng.
Trong những tập hồ sơ của ông Cayce, có nhiều thí dụ về loại quả báo này. Có một trường hợp được ghi chép lại như sau:
Một vị giáo sư dạy nhạc, lúc mới sinh ra đã bị mù, có nghe nói về ông Cayce trong một chương trình phát thanh “Những sự mầu nhiệm”. Ông ta bèn đến nhờ ông Cayce khám bệnh, và sau một thời gian chạy chữa theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, ông ta cảm thấy khá nhiều. Ba tháng sau, ông ta đã thuyên giảm được mười phần trăm về con mắt bên trái, mà các nhà chuyên môn về bệnh đau mắt cho là đã hoàn toàn hỏng.
Kế đó, một cuộc soi kiếp cho thấy rõ ràng tất cả bốn tiền kiếp của ông ta: Kiếp thứ nhất ở Bắc Mỹ hồi vào thời kỳ cuộc nội chiến ly khai (Secession); kiếp thứ nhì ở Pháp hồi thời kỳ Thánh chiến (Croisades); kiếp thứ ba ở Ba Tư vào khoảng một ngàn năm trước Tây lịch; và kiếp thứ tư ở châu Atlantide trước khi xảy ra cuộc Đại hồng thủy. Chính trong kiếp thứ ba ở Ba Tư, ông ta đã gây nên cái nhân xấu ác giờ được báo ứng bằng sự mù mắt của ông ta trong kiếp này. Hồi đó, ông ta là thành viên của một bộ lạc dã man có tục lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những tù binh, và chính ông ta là đao phủ trực tiếp xử tội các tù nhân bằng cách đó!
Một thí dụ thứ hai đáng được ghi nhớ là trường hợp của một thiếu nữ làm nghề sửa móng tay, bị chứng liệt bại cả hai chân từ khi mới lên một tuổi. Cô này không thể đi đứng gì được nếu không dùng nạng chống và những dụng cụ nối xương nhân tạo. Một cuộc soi kiếp tiết lộ rằng nguyên nhân của bệnh trạng cô bây giờ là do một tiền kiếp ở châu Atlantide. Trong kiếp đó, cô đã dùng những phép thuật tà đạo để làm cho kẻ khác bị yếu mềm cả tay chân, trở nên bất lực và chịu để cho cô sai khiến. Bởi vậy trong kiếp này cô phải chịu quả báo về sự tổn thương mà cô đã gây ra cho kẻ khác.
Một thí dụ thứ ba về loại quả báo tương tác được ghi lại như sau:
Một người phụ nữ bốn mươi tuổi từ nhỏ đã bị một chứng bệnh kỳ lạ. Mỗi khi cô ăn một vài thức ăn như bánh mì, hoặc chất ngũ cốc, thì nhảy mũi dữ dội như bị chứng sổ mũi hoặc cảm cúm. Khi cô dùng đến một vài thứ vật dụng, nhất là đồ bằng da hay bằng nhựa dẻo (plastique) thì lại cảm thấy đau nhói dữ dội ở hông bên trái.
Cô đã đi khám bệnh với nhiều bác sĩ, nhưng không có kết quả, và cho biết rằng cô chỉ thấy giảm bớt trong những cuộc chữa bệnh bằng thôi miên lúc hai mươi lăm tuổi. Sự thuyên giảm đó kéo dài được sáu năm, nhưng rồi triệu chứng cũ lại tái phát.
Cô đến nhờ ông Cayce chữa bệnh. Cuộc soi kiếp cho cô tiết lộ rằng trong một tiền kiếp cô đã từng làm nghề bào chế thuốc, đã dùng nhiều chất hóa học để gây tổn thương cho kẻ khác. Bởi đó cô phải chịu sự đau đớn thể xác bởi những chất hóa học trong kiếp này. Cô cũng đã từng dùng một chất độc để làm cho kẻ khác bị nghẹt thở, và do đó mà ngày nay cô thường bị nhiễm độc bởi một vài chất kim khí, chất nhựa dẻo và những đồ da thuộc bằng chất hóa học…
Một loại quả báo thứ nhì thuộc phạm vi vật chất có thể gọi là quả báo về thể xác, theo đó thì sự lạm dụng thân thể trong một kiếp sẽ gây nên quả báo tương ứng trong một kiếp về sau. Đây là một thí dụ:
Một người đàn ông ba mươi lăm tuổi, từ thuở nhỏ đã bị chứng đau ruột và bộ máy tiêu hóa. Ông ta phải ăn uống kiêng cữ gắt gao và chỉ dùng được một vài loại thức ăn giản dị mà thôi. Và mặc dầu như thế, ông ta cũng tiêu hóa các bữa ăn một cách rất khó khăn, sau nhiều giờ vất vả và mệt nhọc.
Chứng bệnh này gây cho ông ta rất nhiều điều bất tiện, và gây trở ngại không ít trong đời sống xã hội. Cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết nguyên nhân của bệnh trạng này là trong một tiền kiếp dưới triều vua Louis XIII bên Pháp, ông ta từng làm hầu cận của nhà vua. Ông thừa hành công việc một cách tận tâm và chu đáo, nhưng lại có tật tham ăn và ăn uống quá độ. Trong một kiếp trước nữa, khi ông ta làm y sĩ dưới triều vua nước Ba Tư, ông cũng thường xuyên ăn uống không có tiết độ. Như thế trong hai kiếp, ông đã phạm lỗi về tâm lý là lạm dụng sự ăn uống để tìm khoái lạc cho cơ thể. Điều này làm đảo lộn sự quân bình trong trạng thái tâm lý của ông ta, và gây ra quả báo tương ứng trong kiếp hiện tại. Quả báo về xác thân làm cho ông ta bị đau yếu bộ máy tiêu hóa, và bắt buộc ông ta phải hạn chế sự ăn uống trong kiếp này.
Một loại quả báo thứ ba về xác thân mà người ta thường thấy trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce có thể gọi là quả báo tượng trưng. Đây là một loại quả báo rất lạ kỳ và thú vị nhất trong các loại quả báo về thể xác. Một trường hợp thuộc loại quả báo này được kể ra như sau:
Ông Cayce có soi kiếp cho một người thanh niên bị bệnh thiếu máu từ thuở nhỏ. Anh ta là con của một vị bác sĩ, vì thế đã được săn sóc thuốc thang và chạy chữa đủ cách, nhưng vẫn vô hiệu quả. Một chứng bệnh nan y như thế hẳn là phải có một nguyên nhân rất sâu xa.
Một cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một tiền kiếp ở xứ Peru, đã năm kiếp về trước, người này là một vị tướng đem quân chiếm đoạt xứ ấy một cách bạo tàn. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói:
– Cuộc chiến tranh đó đã làm cho bao nhiêu đầu rơi máu chảy, gây nên một thảm họa lưu huyết rất lớn. Bởi đó, trong kiếp hiện tại này, anh ta phải bị bệnh mất máu, không sao chạy chữa.
Chúng ta sẽ hiểu rõ ý nghĩa của sự việc này hơn nếu so sánh với trường hợp quả báo về thể xác, vì tội lỗi của người này không phải do sự lạm dụng một bộ phận nào trong cơ thể của anh ta. Đây cũng không phải là một trường hợp quả báo tương tác, vì nếu như thế thì người thanh niên này có lẽ đã là nạn nhân của một cuộc tàn sát hung bạo. Trái lại, ở đây chúng ta thấy nghiệp quả báo ứng vào chính thể xác của y: nó trở thành một công cụ cho y dùng để nhận lãnh quả báo. Bệnh mất máu làm cho cơ thể anh ta phải yếu đuối suy nhược kéo dài suốt một đời, chính là một cách trả nợ nặng nề đau đớn hơn và có một ý nghĩa sâu sắc hơn là một cái chết tức thời vì đao kiếm trên bãi chiến trường. Người này đã làm đổ máu cả một dân tộc để thỏa mãn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này, sự yếu đuối bất lực do bệnh thiếu máu gây nên làm cho anh ta phải chịu quả báo một cách tượng trưng, nhưng vẫn là tương ứng với hành vi trước đây của anh ta.
Điều này có vẻ như hoang đường nếu chúng ta không quen với những quan niệm tương tự cùng loại, qua sự phát minh gần đây về những sự tương quan giữa tinh thần và thể xác theo khoa Tâm bệnh học (Psychosomatique).
Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả mọi chứng bệnh đều do những nguyên nhân về sinh lý. Những sự tiến bộ của khoa chữa bệnh bằng tinh thần (Psychiatrie) đã chỉ rằng ít nhất có một số bệnh trạng mà nguyên nhân là do những xáo trộn tinh thần hoặc xúc động tình cảm gây nên. Từ sự khám phá này, mới nảy sinh ra một ngành y học mới gọi là khoa Tâm bệnh học (Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: psyche là tinh thần và soma là thể xác). Khoa học này cũng đã đạt được những kết quả hiển nhiên không thể chối cãi về sự liên quan giữa thể xác và tinh thần.
Khoa Tâm bệnh học đã chứng minh rằng những sự căng thẳng về tình cảm nếu không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường sẽ tự biểu lộ nơi thể xác một cách tượng trưng bởi một loại “tiếng nói của cơ thể”. Thí dụ, nếu người bệnh không nuốt được một cách trôi chảy trong bữa ăn mà người ta không tìm thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ thể, thì đó có thể là do có một sự kiện tâm lý trong đời của bệnh nhân mà y “không thể nuốt được”. Sự buồn nôn, nếu không phải là do bệnh tật của cơ thể sinh ra, có nghĩa là người bệnh còn mang trong lòng một mối hận nào đó trong đời sống tình cảm của anh ta mà lúc nào cũng muốn “nôn mửa ra”.
Dường như có một sự tương quan chặt chẽ giữa “tiếng nói của cơ thể” theo khoa Tâm bệnh học với điều mà ta vừa gọi là “quả báo tượng trưng”. Trong các trường hợp sau này, dường như đương sự có một ý thức sâu xa thâm trầm về sự tội lỗi của mình, và ý thức đó biểu lộ ra nơi một bộ phận trong cơ thể. Sự chọn lựa một bộ phận nào sẽ tùy nơi cái ý nghĩa tượng trưng của bộ phận ấy. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình trong số rất nhiều trường hợp quả báo tượng trưng mà người ta tìm thấy trong các tập hồ sơ của ông Cayce.
Một người bị chứng bệnh suyễn kinh niên, trong lúc soi kiếp được nghe ông Cayce nói rằng:
– Anh đã từng đè nén, áp bức kẻ khác, lẽ tự nhiên, nhân quả báo ứng, có lúc anh phải cảm thấy nghẹn ngào khó thở, cũng như chính anh bị kẻ khác đè nén và áp bức vậy.
Một người điếc nhận được lời cảnh cáo rằng:
– Anh đừng bịt tai làm ngơ trước sự đau khổ của những người cầu xin anh giúp đỡ.
Cuộc soi kiếp cho biết người điếc này là một người dòng dõi quí tộc dưới thời Cách mạng Pháp, nhưng thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiếng rên siết và những cảnh lầm than khốn khổ của người đương thời.
Một người bị chứng bệnh lao tủy sống, được cho biết rằng:
– Ông đã từng gây nhiều chướng ngại khó khăn cho kẻ khác. Nên bây giờ ông phải chịu những khó khăn chướng ngại đó trong thân thể của chính mình.
Một người bị chứng bệnh rút gân, làm cho hai chân bị teo bắp thịt, càng ngày càng nhỏ dần, được cho biết rằng:
– Đây không chỉ là bệnh rút gân và teo bắp thịt mà thôi; đó là hậu quả của những gì mà anh đã làm cho kẻ khác trong những kiếp trước.
Trường hợp lạ lùng nhất về quả báo tượng trưng trong các tập hồ sơ Cayce là trường hợp của một đứa trẻ mười một tuổi, có tật đái dầm từ khi lên hai tuổi. Trường hợp này được kể ra một cách đầy đủ chi tiết hơn, vì tính cách đặc biệt của sự điều trị cho em bé ấy.
Người thiếu niên này thuở nhỏ rất hiền lành, được cha mẹ nuôi nấng dễ dàng cho đến khi người mẹ sinh thêm một đứa em gái. Từ khi đó, nó bắt đầu đái dầm trên giường trong giấc ngủ. Nó đái dầm như vậy mỗi đêm. Cha mẹ nghĩ rằng có lẽ nó cảm thấy sắp sửa bị bỏ rơi khi người mẹ sinh thêm một em nhỏ nữa, nên tiềm thức của nó khiến cho nó tái diễn những thói quen của tuổi sơ sinh để làm cho cha mẹ phải chú ý và săn sóc nó như thuở trước. Cha mẹ y bèn hết sức cố gắng để bày tỏ cho nó biết rằng tình thương của cha mẹ vẫn không thay đổi vì đứa em gái nhỏ mới sinh, và nó vẫn được thương yêu săn sóc như trước, nhưng vẫn không kết quả.
Khi đứa trẻ lên ba tuổi, cha mẹ nó bèn nhờ một vị bác sĩ chuyên môn về bệnh thần kinh chạy chữa. Sau một năm thuốc thang điều trị, nó vẫn không thuyên giảm chút nào, và cha mẹ nó đành phải chịu vậy. Suốt năm năm trường, nó vẫn tiếp tục đái dầm mỗi đêm. Cha mẹ nó chạy đủ thầy và thử đủ mọi cách điều trị nhưng bệnh vẫn không sao chữa khỏi. Đứa trẻ vẫn đái dầm như vậy cho đến năm tám tuổi. Một lần nữa cha mẹ em lại chạy chữa với một bác sĩ khác, và cuộc điều trị kéo dài suốt hai năm, nhưng vẫn không hiệu quả.
Khi đứa trẻ lên mười tuổi, thấy rằng việc điều trị vẫn không có kết quả gì, cha mẹ em mới thôi và đành chịu bỏ cuộc.
Khi đứa trẻ lên mười một tuổi tuổi, cha mẹ em nghe nói về khả năng chữa bệnh của ông Cayce. Người cha bèn đến nhờ ông Cayce khám bệnh về trường hợp lạ kỳ của đứa con trai mình.
Ông Cayce bèn dùng thần nhãn để soi kiếp cho đứa trẻ thì thấy rằng trong kiếp trước nó là một giáo sĩ đạo Gia Tô trong thời xử án những kẻ theo tà giáo. Công việc của người này là trị tội những mụ đồng bóng, phù thủy bằng cách trói họ trên những chiếc ghế đẩu, rồi cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.
Sau khi đã tìm ra cái lý do nhân quả nói trên, cuộc soi kiếp cho biết bệnh ấy có hy vọng chữa khỏi. Cha mẹ đứa trẻ được cho biết là hãy áp dụng phương pháp ám thị cho y trong giấc ngủ, và sự ám thị này phải thuộc về tinh thần chứ không phải về xác thể.
Vài hôm sau, khi về đến nhà, ban đêm người mẹ bèn đến ngồi bên cạnh giường con trai bà. Đợi đến lúc em đã ngủ mê, bà mới bắt đầu nói bằng một giọng trầm trầm và chậm rãi những lời này:
– Con là một người hiền lành tốt bụng. Con sẽ làm cho nhiều người được sung sướng. Con sẽ giúp đỡ tất cả những người con gặp trên đường đời của con. Con rất hiền lương và tốt bụng.
Bà lặp đi lặp lại câu ấy nhiều lần, và thay đổi với những danh từ khác nhau, tuy rằng với bấy nhiêu ý tưởng đó trong chừng mười phút trở lại, trong khi con bà đang ngủ mê.
Đêm đó, lần đầu tiên từ chín năm nay, đứa trẻ không đái dầm như mọi khi. Trong nhiều tháng, bà mẹ vẫn kiên trì theo đuổi phương pháp ám thị đó và cũng vẫn dùng bấy nhiêu lời tương tự. Đứa trẻ không đái dầm một lần nào trong suốt mấy tháng đó.
Dần dần, bà mẹ thấy rằng bà chỉ cần ám thị ba ngày một lần, rồi sau đó mỗi tuần một lần cũng đủ; và sau cùng, sự ám thị cũng không còn cần thiết nữa: Con bà đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Trường hợp này có nhiều điểm lý thú. Trước hết là cuộc ám thị vừa áp dụng lần đầu tiên đã làm dứt hẳn một chứng bệnh kinh niên trong chín năm. Và nếu người mẹ không phải là một người đàn bà có học thức và đức hạnh, thì có lẽ người ta đã cho rằng đó là chuyện nói thừa; nhưng bà là một nữ luật sư ở Tòa Án, bà không phải là một người tin nhảm hay dị đoan mê tín, và không có tâm địa bất lương.
Điểm thứ hai là trong sự ám thị đó, bà mẹ không hề bảo con là đừng đái dầm. Sự ám thị đó không nhằm vào cái ý thức về thể xác, mà nhắm vào cái ý thức tâm linh của người thiếu niên. Nói một cách khác, sự ám thị nhắm vào cái ý thức về sự tội lỗi mà nó đã làm trong kiếp trước, được biểu lộ một cách tượng trưng trong thể xác của nó do đường tiểu tiện. Trong kiếp trước, nó đã nhận chìm người khác xuống ao nước lạnh, hoặc chịu trách nhiệm về hành động tàn ác đó; nên trong kiếp này, nó cảm thấy trong chỗ kín đáo, u ẩn của tiềm thức, rằng nó phải trả cái nghiệp ác đó, và cái quả báo đã ứng hiện vào xác thân của nó một cách tượng trưng. Mặc dầu trong kiếp này nó không làm hại ai, nhưng một lớp kín đáo trong tiềm thức làm cho nó nghi ngờ về sự tốt lành của mình, vì nó còn mang nặng trong lòng cái dấu ấn về sự trừng phạt nặng nề đau khổ mà nó đã gây ra cho kẻ khác trong kiếp trước. Sự ám thị của bà mẹ đã thức động đến cái lớp kín đáo u ẩn đặc biệt đó, làm cho nó hiểu rằng sự tội lỗi của nó có thể xóa bỏ được bằng những hành động và cử chỉ hiền lương, tốt lành, và bởi đó, cái quả báo tượng trưng kia sẽ không còn là cần thiết nữa.
Từ đó người thiếu niên đã bắt đầu sống một cuộc đời mới. Anh ta được mọi người thương mến, là một người học trò tốt và tỏ ra có khả năng lãnh đạo. Tâm tình, tính chất của anh ta đã thay đổi. Trong một cuộc giảo nghiệm về khả năng tại Viện Đào tạo nhân cách Johnson O’Connor, anh ta đã được xếp vào hàng những người có triển vọng thành công trong sự giao tế xã hội.
Người mẹ cho rằng sự thay đổi cá tính của anh ta một phần nhờ sự điều trị thần kinh, và một phần nhờ cuộc khám bệnh bằng thần nhãn của ông Cayce.
Hiện nay, vào năm mười tám tuổi, theo ý kiến của cha mẹ thiếu niên này, thì người anh ta có một đức tính căn bản là rộng rãi khoan dung đối với mọi người. Đối với những thói hư tật xấu của người đời, anh ta đều tìm cách bào chữa và tìm ra một sự giải thích về tâm lý để khoan dung và tha thứ cho họ. Dường như tánh độc ác, khắc nghiệt của anh ta trong kiếp trước, mà chứng bệnh đái dầm là một hình phạt tượng trưng, đã được biến đổi thành một đức tánh khoan dung nhân hậu trong kiếp này. Nhờ đó, cán cân nhân quả đã lập lại sự thăng bằng, và căn bệnh quả báo của anh ta cũng dứt tuyệt.
Nếu chúng ta xét lại những trường hợp nhân quả báo ứng kể trên, chúng ta có thể thấy rõ một vài nguyên tắc tác động chung của luật nhân quả.
Trong những cuộc quan sát và soi kiếp của ông Cayce, ông đã chỉ cho ta thấy rằng mọi hành động trong quá khứ đều gây nên một nghiệp quả hiển nhiên và cụ thể trong hiện tại. Nhưng cái nghiệp quả đó không phải lúc nào cũng báo ứng một cách thật ăn khớp với cái nguyên nhân đã gây ra, theo kiểu như vay thế nào trả thế ấy.
Thí dụ như trường hợp người nhạc sư bị mù mắt. Kiếp trước ông ta đã dùng dùi sắt nhọn nướng đỏ chọc vào mắt kẻ tù binh; nhưng kiếp này ông ta không sinh làm dân của một bộ lạc dã man để rồi bị bắt làm tù binh của một bộ lạc thù địch tàn bạo, dùng dùi sắt nướng đỏ chọc vào mắt ông ta giống như vậy. Ông ta sinh ra đã bị mù lòa, và sinh trưởng trong một xã hội văn minh tân tiến của thế kỷ hai mươi. Những sự việc xảy ra trong kiếp này của ông ta không hoàn toàn giống hệt như sự việc đã xảy ra trong kiếp trước.
Thí dụ trên và nhiều thí dụ khác cùng một loại có thể cho phép chúng ta đi đến kết luận chung rằng: Luật nhân quả là một định luật tâm lý, nó tác động trước hết là trên địa hạt tâm lý. Những hoàn cảnh vật chất chỉ là một phương tiện để đạt tới cái mục đích tâm lý đó mà thôi. Vì thế, sự báo ứng của nghiệp quả trên bình diện vật chất không hẳn phải là đúng khớp với cái nguyên nhân đã gây ra từ trước, mà chỉ là đúng theo một cách tượng trưng, dựa vào yếu tố nhận thức tâm lý là chính. Trên bình diện tâm lý, nghiệp quả báo ứng mới thật là tương ứng và trọn vẹn.
Một nguyên tắc đại cương khác dường như căn cứ trên vấn đề khí cụ của nghiệp quả. Trong các tập hồ sơ của ông Cayce, người ta không hề thấy có trường hợp nào mà sự đau khổ trong kiếp hiện tại lại gây ra bởi một nạn nhân cũ của đương sự trong kiếp trước, và đã gặp lại người ấy trong kiếp này. Trong trường hợp của vị nhạc sư mù từ lúc mới sinh: Không có điều gì chỉ rằng cha mẹ ông ta vốn là những nạn nhân cũ trong kiếp trước, nay đầu thai lại để hành phạt ông ta. Cô thiếu nữ làm nghề sửa móng tay bị bệnh liệt bại hai chân từ thuở nhỏ không phải là bị trả thù bởi những nạn nhân cũ của cô trước kia ở châu Atlantide…
Nói tóm lại, quả báo xảy đến thường là không phải do nạn nhân đương sự gây ra, mà có thể do những người khác, những người này chỉ là những công cụ của nghiệp quả, cũng như những người tay sai đi đòi nợ, để cho đương sự thông qua đó mà trả những món nợ cũ. Và những người “tay sai” này cũng chỉ hành động một cách vô ý thức, chứ không biết gì cả về cái vai trò “thiên lôi” hay “hung thần” của mình, tức là cái vai trò làm công cụ của nghiệp quả.
Chương 5
Quả Báo Của Sự Chế Nhạo
Theo giáo lý của đạo Gia Tô thì tánh kiêu ngạo là một trong bảy tội lớn nhất của con người. Cũng như tất cả những tín điều khác của đạo Gia Tô, điều này rất lý thú, nhưng dường như hơi cách xa những vấn đề thực tế về sự đau khổ của nhân loại. Tuy nhiên, nếu chúng ta chấp nhận những bằng chứng trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì sự kiêu ngạo có thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất là khi nó biểu lộ bằng sự chế giễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những lời nói gièm pha, chỉ trích, chê bai, dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn, và sẽ mang đến quả báo tương ứng là người chế nhạo sẽ bị một thứ bệnh tật, tai ương, đau khổ không kém người bị anh ta chế giễu!
Những hồ sơ của ông Cayce có ghi chép bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy nguyên ra từ những hành động chế nhạo nói trên. Có điều hơi lạ là sáu trường hợp trong số đó xảy ra trước hết ở La Mã, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô. Về điểm này, một lần nữa chúng ta lại thấy những nhóm người sống trong cùng một thời kỳ lịch sử thường tái sinh cùng lúc vào một thời kỳ khác. Trong số đó có ba trường hợp về bệnh liệt bại.
Trường hợp thứ nhất là của một người đàn bà bốn mươi lăm tuổi, có ba người con. Chồng bà làm một nghề tự do. Năm ba mươi tuổi, bà bị liệt bại cả hai chân và không thể đi đứng vận động gì được cả. Từ đó, bà phải ngồi trên một chiếc xe lăn và phải có người giúp đỡ mỗi khi muốn cử động.
Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân bệnh trạng của bà là một tiền kiếp dưới thời kỳ đế quốc La Mã. Hồi đó, bà là một người trong dòng dõi quí tộc của triều vua Néron và trực tiếp tham gia việc khủng bố những người theo đạo Gia Tô. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói:
– Người này đã cười khi thấy những người khác bị hành hình trên vũ đài, và bây giờ người này phải chịu cảnh đau khổ tương tự như của những người ấy!
Trường hợp thứ hai, có lẽ là trường hợp đau khổ nhất trong tập hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba mươi bốn tuổi, bị liệt bại từ năm lên sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu vẹo xương sống. Người cha chẳng những rất thản nhiên với bệnh trạng của bà, mà còn lấy hết tiền bạc của bà dành dụm được trước đó. Số phận của bà càng hẩm hiu hơn nữa vì hai cuộc tình duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị tử trận trong cuộc Thế chiến thứ nhất. Sau đó bà đính hôn với một người đàn ông khác, nhưng người này lại bị đau nặng và khi vừa khỏi bệnh thì liền cưới ngay cô nữ y tá đã săn sóc anh ta trong bệnh viện! Ngoài ra những đau khổ về thể xác và tình cảm trên đây, còn thêm nào là những cảnh tượng gây gổ trong gia đình giữa cha mẹ, một đời sống cô độc thiếu thốn ở thôn quê, và một lần té ngã trên những bậc thang bằng đá, làm cho bà phải nằm liệt giường và bị thêm một tật khác ở xương sống: người ta không thể tưởng tượng một cuộc đời đau khổ hơn nữa!
Nguyên nhân của tình trạng này thuộc hai kiếp về trước ở đế quốc La Mã. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết:
– Người này thuộc về dòng dõi nhà vua Palatius, và thường đến vũ đài xem những cuộc đấu võ bắt buộc giữa các tội nhân, hoặc giữa một tội nhân với một con thú dữ. Sự đau khổ hiện thời phần lớn là vì người này đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yếu đuối bất lực của những tù nhân bị thú dữ xé xác trên vũ đài!
Trường hợp thứ ba là của một nhà sản xuất phim ảnh, bị chứng liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện thời hãy còn có tật ở chân. Nguyên nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở đế quốc La Mã. Khi soi kiếp, ông Cayce cho biết:
– Người này thuở xưa làm lính đao phủ của nhà vua, và đã cười cợt chế nhạo những kẻ tỏ ra sợ sệt hoặc những người bị ngã quỵ trên vũ đài dưới ngọn đao hành tội của anh ta. Anh ta đã gây tội ác không chỉ vì phải làm phận sự của người đao phủ, mà còn vì đã khinh bỉ chế nhạo những người theo một lý tưởng tôn giáo. Trong kiếp này, anh ta phải mang một thể xác tàn tật để trải qua những kinh nghiệm đau khổ mà các nạn nhân xưa kia của anh ta đã chịu đựng.
Dưới đây là bốn trường hợp lý thú mà sự chế nhạo lại bị những quả báo khác hơn là bệnh liệt bại.
Trường hợp thứ nhất là trường hợp của một thiếu nữ bị chứng lao xương. Trong kiếp trước đây, cô có mặt trong nhóm người đầu tiên đến khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bệnh trạng của cô được truy nguyên ra từ một kiếp trước nữa ở La Mã. Hồi đó, cô thuộc dòng quí tộc dưới triều vua Néron, và hay mua vui bằng cách đến xem những cảnh hành tội tín đồ đạo Gia Tô trên các vũ đài. Cảnh tượng một thiếu phụ bị móng vuốt sư tử cào rách một bên hông đã làm cho đương sự vô cùng vui thích và cười đùa một cách khoái trá!
Trường hợp thứ hai là một thiếu nữ mới mười tám tuổi, lẽ ra đã có một vẻ đẹp quyến rũ nếu không bị béo phì! Các bác sĩ y khoa nói rằng đó là do một tuyến nội tiết hoạt động quá độ. Cuộc khám bệnh bằng thần nhãn của ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch trong sự hoạt động của tuyến nội tiết; nhưng một cuộc soi kiếp sau đó tiết lộ rằng chứng bệnh của cô ta có một nguyên nhân sâu xa hơn, là một chứng bệnh về nhân quả. Hai kiếp trở về trước, cô là một lực sĩ ở thành La Mã, nổi tiếng trong môn điền kinh và có vẻ đẹp cân đối của thân hình lực lưỡng. Nhưng người này hay chế nhạo những lực sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về sự khéo léo lanh lẹ cũng như không có sự cân đối vóc dáng.
Trường hợp thứ ba là của một thanh niên hai mươi mốt tuổi, theo đạo Gia Tô. Cha mẹ anh ta muốn cho anh sau này trở nên một giáo sĩ; nhưng anh ta thấy rằng điều đó không hợp với sở thích của mình. Anh ta bèn từ chối không chịu nghe theo. Thế rồi anh ta phát hiện ra mình mắc phải bệnh đồng tính luyến ái. Anh ta bèn đến nhờ ông Cayce soi kiếp, và được biết rằng trong tiền kiếp dưới một triều vua ở nước Pháp anh đã từng là một họa sĩ chuyên về lối vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét bút sắc sảo và linh động, người này thường hay vẽ những cảnh luyến ái giữa những người đồng tính với nhau để làm trò cười cho thiên hạ. Cuộc soi kiếp kết luận như sau:
– Anh chớ lên án kẻ khác nếu anh không muốn bị lên án. Anh cười người khác bao nhiêu, anh sẽ phải bị người cười bấy nhiêu, và anh lên án kẻ khác về điều gì, thì chính anh sẽ mắc phải điều đó!
Trường hợp thứ tư là một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi mười sáu tuổi, làm cho anh ta bị đứt tiện ngang tủy xương sống. Các bác sĩ chuyên môn đều nói rằng anh ta sẽ không thể sống được, nhưng rốt cuộc anh vẫn sống sót. Anh ta bị bại liệt hoàn toàn cả nửa thân mình, từ đốt xương sống thứ năm trở xuống và kể từ khi đó không thể rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc anh ta được ba mươi ba tuổi, nghĩa là mười bảy năm sau khi tai nạn xảy ra, mẹ anh ta đến nhờ ông Cayce soi kiếp cho con mình. Cuộc soi kiếp cho biết rõ hai tiền kiếp: Một kiếp vào thời Cách mạng ở Bắc Mỹ, khi đó người này phục vụ trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu tú và can đảm. Do kinh nghiệm trong kiếp đó mà kiếp này anh ta có được những đức tính kỷ luật, trật tự, yêu đời và khả năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mã vào đầu Công nguyên, người này đã tạo ra cái nhân của thảm trạng hiện tại. Hồi đó anh ta là một người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái trá mà nhìn thấy sự đau khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành hình ở pháp trường. Anh ta đã từng thi đấu trên vũ đài, và về sau anh ta thường nhìn xem những địch thủ của mình chống chọi với các con thú dữ. Anh ta đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc, nhưng không chút động lòng. Kết quả là trong kiếp này anh ta phải tự mình chịu đựng sự đau khổ, và cũng phải tập chịu đựng một cách thản nhiên nhưng với một mục đích khác hẳn.
Có điều lý thú là trong những trường hợp kể trên, gồm có ba người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bệnh lao xương, một người béo phì, một người có bệnh đồng tính luyến ái, một người giập tủy xương sống, tất cả là bảy người nhưng không có trường hợp nào là bệnh di truyền!
Trong mỗi trường hợp, bệnh trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự đã sinh ra đời, ở vào khoảng giữa năm lên một và năm ba mươi sáu tuổi. Trong một trường hợp, bệnh tật do tai nạn xe hơi gây ra. Nhưng dầu thế nào, phía sau cái nguyên nhân hiển hiện vẫn còn ẩn khuất một nguyên nhân sâu xa hơn. Khi chúng ta nhìn thấy trong một tai nạn xe cộ, có người bị thiệt mạng, có người lại sống sót, có người bị thương tích nặng nề, có người lại không bị một vết trầy da… chúng ta thường xem những điều đó như một sự may rủi, tình cờ. Nhưng nếu ta xét những trường hợp kể trên thì thấy rằng dường như có sự tác động của một sức mạnh vô hình, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai nạn xảy ra bất thình lình. Và như thế những quả báo xảy đến cho mỗi người đều đúng luật công bình, không mảy may sơ sót.
Mới nghe qua những trường hợp kể trên, người ta thấy rằng dường như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng nề đối với một việc không quan trọng như là một tiếng cười nhạo, nhưng nếu chúng ta suy xét kỹ thì sẽ thấy quả thật có sự công bằng. Một người đùa cợt nhạo báng trước sự đau khổ của kẻ khác tức là kết án người này về những hoàn cảnh đau khổ của họ mà không hề cảm thông được cái nguyên nhân ẩn tàng. Người ấy khinh bỉ quyền tự do của người khác, dầu cho đó là sự tự do lỗi lầm mà mỗi người đều phải trải qua để rút ra những bài học kinh nghiệm tự thân. Người ấy chà đạp, dày xéo cái nhân cách, cái giá trị và tính cách thiêng liêng của mỗi con người, dầu rằng con người ấy có bị rơi vào sự đốn hèn, sa đọa hay lố bịch đi chăng nữa. Ngoài ra, người ấy còn rơi vào sự tự tôn khi cho rằng mình cao quý hơn kẻ mà mình đang chế giễu đùa cợt.
Trong sự chế giễu đùa cợt, có một hình thức tự tôn rất bỉ ổi làm cho đương sự cách biệt rất xa với lòng nhân ái, với tình thương bao la đối với nhân loại và vạn vật.
Những điều kể trên làm cho ta phải nhớ đến những giáo lý răn dạy người đời, được chứa đựng trong một quyển sách về đạo lý cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng thật là hữu phước thay cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay nhạo báng đùa cợt. Tác giả bộ Thánh Thi đã tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi ghi lại những lời này:
– Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi phải gây tội lỗi vì cái lưỡi.
– Ngươi chớ xét đoán kẻ khác nếu ngươi không muốn bị người khác xét đoán! Vì ngươi sẽ bị kết án cũng như ngươi đã kết án kẻ khác vậy.
Đức Jesus cũng nói rằng:
– Kẻ nào mắng người khác là “đồ ngu” sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn lửa địa ngục!
Xét về những trường hợp mà sự chế nhạo đùa cợt bị mang lấy quả báo vô cùng thảm khốc như đã kể trên, thì lời nói của đức Jesus hẳn là có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm lý vậy.
— o0o —
[ Mục Lục ] [ Phần 1 ] [ Phần 2] [ Phần 3] [ Phần 4 ] [ Phần 5 ]