VĨNH GIA CHỨNG ĐẠO CA
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn
Thánh Tri Dịch Nghĩa Việt và Viết Bài Học Giải
(Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol.48, No.2014)
Lời Tựa
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy!
Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
Chư Phật trong ba đời mười phương đều cùng một Bản Thể Chân Tâm này. Vì vậy ngoài [chân] Tâm không Phật, ngoài Phật không Tâm, bởi Tâm tức là Phật và Phật tức là Tâm. Thấy Phật tức là thấy Tâm. Thành Phật tức là ngộ được Tâm này. Ngoài Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm ra thì trọn chẳng có gì khác. Trong Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm thì không có chân vọng, nên chẳng cần trừ vọng chứng chân, bởi chân và vọng là tương đối thuộc tình thức. Chính tình thức này nó khiến cho ta lạc mất Bản Tâm, theo cái tâm thức hư vọng mà lưu chuyển sinh tử từ vô thủy đến nay. Do vậy ở trong tình thức thì mới thấy có sinh tử, có lưu chuyển trong sáu đường. Nhưng một khi giác ngộ được Bản Tâm rồi thì mới hay xưa nay rỗng lặng không một vật, tất cả trong ngoài đều thông suốt vô ngại; hết thảy là chân, nên muốn tìm chân vọng ở trong ấy trọn không thể được. Cho nên ngài Huyền Giác nói: “mộng lý minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại thiên.” (Trong mộng thì rõ ràng có sáu loài chúng sanh; Giác rồi thì rỗng lặng không có ba ngàn đại thiên thế giới!)
Muốn trở về Bản Thể Chân Tâm ngay nơi mình thì cần phải cất hết mọi sở niệm thuộc vọng thức bằng phương pháp tham thiền đốn ngộ. Một khi mọi sở niệm đã không còn thì năng niệm cũng chẳng còn chỗ bám chấp, và cuối cùng cũng bị quét sạch. Năng sở song vong thì cánh cửa Đại Thừa được mở rộng, Chân Tánh hiển bày một cách tròn sáng trọn vẹn. Do vậy ngài Huyền Giác nói ở câu 38 rằng:
“Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính thượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thủy hiện
Tâm Pháp song vong Tánh tức Chân”
(Tâm là căn, pháp là trần
Cả hai thứ đều như vết dính trên mặt gương
Nếu vết dơ sạch hết thì ánh sáng mới hiện ra
Nếu Tâm và Pháp cùng quên thì Tánh tức Chơn vậy!)
Ngoài việc đề cao pháp viên đốn Tham Thiền và cửa Thật Tướng ra, Ngài Huyền Giác còn đặc biệt kể về sự ẩn dật tu hành, an vui trong núi rừng sau khi được ấn chứng bởi Lục Tổ Huệ Năng. Đồng thời khuyến tấn người đi trên đường Đạo cần phải tránh hai cái hố đoạn kiến và thường kiến, cũng như cần phải có sự quyết tâm và sức nhẫn nhục để vượt qua mọi gian lao trở ngại. Phải khéo léo và cẩn thận đề phòng tâm, ý, thức, bởi đi sai một ly thì xa ngàn dậm. Nếu lạc trong rừng tri giải thì cứ lanh quanh làm khách phong trần, làm người đếm bạc cho kẻ khác, ăn bánh vẽ đâu thể no lòng. Như thế thì chẳng những không được về nhà, mà còn có thể gieo chủng tánh tà do tri kiến sai lầm thì khó mà tin hiểu được pháp viên đốn, vào được cửa Thật Tướng, chứng pháp Vô Sanh, và thể nhập biển Tri Kiến của Phật. Do vậy phải khéo! Phải khéo!
Bản Dịch Nghĩa và Học Giải này cốt là làm sao cho bài văn được dễ hiểu và gần gũi phần nào cho người Sơ Phát Tâm học hỏi nghiên cứu để thấy được chỗ vào, nắm ngay nơi cái gốc mà tu chứ đừng uổng công chọn nơi cành lá. Một khi đã biết chỗ vào thì hãy buông xuống những ngôn từ nghĩa giải từ bài dịch nghĩa và học giải này luôn mà chẳng có một chút nào hối tiếc do dự, thì đó mới thật là người biết chỗ vào, là người chân tham thiền tu đạo vậy! Ngay nơi tâm mà trực thẳng, ngay nơi tâm mà tu, ngay nơi tâm mà buông xuống, ngay nơi tâm mà lãnh hội, trực nhập Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Mong thay!
Dẫu có muốn làm cho bài văn được dễ hiểu và gần ngũi nhưng thức phàm còn bám chấp và có giới hạng, đâu dám mong suy lường Thánh Trí và cũng không thể làm sáng thêm cho lời ngài Huyền Giác, bậc đã Triệt Ngộ Bản Tâm được. Bởi chẳng ai có thể làm cho Tự Tánh mờ thêm đi hay sáng thêm ra được, vì nó vượt ngoài vòng tương đối của vọng thức. Vì vậy, không sao tránh khỏi những điều sai sót. Vậy ngưỡng mong các bậc Thầy, các vị Thiện Tri Thức gần xa thương tình chỉ giáo thêm cho chúng con được thắm nhuần diệu chỉ.
Kính cảm niệm ơn sâu dầy của đức Phật Thích Ca, chư liệt vị Tổ Sư, ngài Huyền Giác, các bậc Thánh Hiền xưa nay, cũng như Tôn Sư đáng kính của chúng con đã xả thân vì đạo Pháp, tốn bao xương máu, gian lao khó nhọc để ban bố và lưu truyền pháp bảo vô giá này cho đến tận ngày nay. Một lời một câu cũng là âu sâu tái tạo. Do vậy ngài Huyền Giác dạy:
“Phấn cốt toái thân vị túc thù.
Nhất cú liễu nhiên siêu bá ức.”
(Dẫu có thịt nát xương tan cũng chưa thể đền ân hết được.
Một câu nếu thấu suốt thì vượt ngoài số lượng)
Chúng con không biết nói gì hơn là xin nguyện y giáo phụng hành, và tiếp tục lưu truyền pháp bảo vô giá này cho thế hệ sau để đền đám thâm ân của Phật, Tổ, và Thầy.
Nguyện cho người thấy người nghe đồng kết pháp duyên, đồng tỏ bản Tâm, đồng thành Phật đạo. Cũng nguyện hồi hướng phước báo này đến tất cả kẻ oán người thân, ông bà cha mẹ hiện đời và trong nhiều đời đồng được an vui giải thoát, để những dây nợ ân oán trong nhiều đời nhiều kiếp cùng một lúc nhất thời đồng báo trả hết.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thánh Tri Kính Viết
Rằm Tháng Giêng năm Đinh Dậu (2017)
| Mục lục | Trang sau/Nội dung |
theo Thư Viện Hoa Sen