BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI – Tập 2
Nhiều tác giả – Hạnh Đoan lược dịch
- BA MỸ NHÂN
- NƯỚC LÈO TRỨ DANH
- NGUYÊN NHÂN ĐÁNG SỢ
- ĐÁM TANG CHÓ
- NGƯỜI ƯA CÂU CÁ
- THỨC NGON ĐẶC CHẾ
- NGƯỜI CHÂN VOI
- BÁN RẮN MỐI
- CÁ “CÂU” NGƯỜI
- TIẾU THƯ KHỈ
- TRỘM CÔNG GIẢM LIỆU
- NGƯỜI CHỒNG TÀI HOA
- PHÁP QUAN KỲ ÁN
- NHỮNG KẺ BUÔN NGƯỜI
- QUÁN NGON CAO CẤP
- ĐI CÂU BỊ CẢM ĐỘNG
- CHUYỆN NƠI LÂM TRƯỜNG
- KHI MÁY MỔ HOÀN TẤT
- CẬN TỬ NGHIỆP ĐÁNG SỢ
- THỊT RÙA NGON
- TÌNH THƯƠNG CỦA KHỈ LÔNG VÀNG
- HỨA TIÊN SINH
- NGỌC LAN
- CON LỪA
- CÔNG CHÚA THĂNG HOA
- CHU TÚ HOA
Lời cảm ân
(Của Hội Đạo Đức Trung Hoa)
“Báo ứng hiện đời” sau khi xuất bản từ năm 2003 đến nay, được độc giả trong nước ngoài nước nhiệt liệt hưởng ứng, đến tháng giêng năm nay (2009), đã tái bàn lần thứ 9, tổng cộng 21 vạn sách. Độc giả bao gồm các chùa bên Mỹ, Anh, Úc, Nhật, Đông Nam Á, Hương Cảng, Đài Loan… và các tỉnh trong Đại Lục. Đông đảo độc giả gọi điện gởi thư đòi sách và gởi bài tới, nhiệt liệt cổ vũ bảy tỏ mong ước được xem tập kế tiếp nữa. Được độc giả ủng hộ đắc lực, nên chúng tôi thu thập chuyện nhân quả báo ứng người thực việc thực trong ba nước: Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc. Giờ đây, “Báo ứng hiện đời tập 2” cuối cùng đã xuất bản. Nhân cơ hội này, chúng tôi xin cảm ơn nhiệt tâm chân thành gởi bài của độc giả, và xin tán thán công đức vô lượng.
18/4/2011
-> đọc Trọn Bộ | Tập 1 | Tập 2 | Tập 3 | Tập 4 | Tập 5 | Tập 6 | Tập 7 |
–> Nghe đọc online trọn bộ này tại đây: Báo Ứng Hiện Đời – Video
1. BA MỸ NHÂN
Vợ chồng Quan giáo sư hiện.nay 55 tuổi, sinh được ba cô con gái dung mạo mỹ lệ, tuổi tác khá cách nhau: 25, 23, 20. Mặc dù là những tiểu tư lá ngọc cành vàng kiều diễm, nhưng các tiên nương này vẫn chưa có đổi tượng cầu hôn Vợ chồng giáo sư hết sức khỗ sầu. Trong khi đó nhiều thanh niên vừa thoáng nhìn qua các cô thì đã nghiêng ngửa hồn phách, ra công theo đuổi… Nhưng một khi đã phát hiện các tuyệt đại mỹ nhân này không thề nói năng gì, thì họ lập tức thối lui, bỏ đi.
Vợ chồng Quan giáo sư thuộc hàng thượng lưu trí thức, xưa nay không hề tin vào thuyết nhân quả. Nhưng cứ lần lượt sinh hạ liên tiêp ba cô gái câm, quả thực tinh thần họ bị đả kích khốc liệt đến muốn suy sụp. Họ ngơ ngác bàng hoàng, vạn phần thống khổ. Nỗi buồn làm mặt họ già đi, hai người tuy có học thức cao và giàu sang, nhưng không thể nào đem lại hạnh phúc cho con mình. Sự khiếm khuyết của ba mỹ nữ này, khiến người ta cảm thấy kinh sợ, ưu tư thắc mắc nhưng không thể giúp gì.
Thường có câu: “Tuổi thanh niên ưa bàn học vấn, tuồi trung niên ưa bàn về sổ mệnh đến lão niên ưa bàn về tôn giáo”… Vợ chồng Quan giáo sư hiện đang bước vào tuổi lão niên, song tinh thần họ trường kỳ thống khổ mà không thuốc men nào có thể trị lành. Vì vậy đối với tôn giáo họ dần dần phát sinh hứng thú muốn tìm hiểu.
Cuối tuần, nhờ một người bạn khuyến khích, họ bèn đến một ngôi chùa ven đô nghe cao tăng thuyết pháp.
Hòa thượng giảng: – “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, quy luật nhân quả tồn tại rất khách quan và không do đức Phật quy định hay sáng tạo ra. Đức Phật chỉ là công bố, nói rõ cho chúng sinh biết mà cảnh giác thôi. Bắt kể bạn tin hay không, đời sống tất cả chúng ta đều nằm trong nhân quả, vỉ vậy mỗi cá nhân chúng ta cần có trách nhiệm đối với hành vi thiện ác của bản thân mình. Mỗi người chính là kẻ sáng tạo vận mệnh của mình. Nếu như tự mình làm ác, thì bạn sẽ gặp quả báo thống khổ”…
Đề tài buổi thuyết pháp hôm ấy giống như được nêu lên để Quan tiên sinh chiêm nghiệm và trực diện với nội tâm sâu thẳm… ông bỗng hồi tưởng lại chuyện đã qua từ 25 năm trước…
“Hồi đó, Vợ chồng Quan giáo sư vừa kết hôn được hai tháng thì chị Quan hoài thai. Anh Quan rất vui mừng, lái chiếc xe hơi đắt tiền sang trọng chở vợ đến miền duyên hải có phong cảnh nên thơ hữu tình, cùng nhau du lịch.
Có lần, họ đến miền bắc Thái Lan, tham gia hội yến, xe hơi dừng trước khoảng sân rộng của một ngôi chùa. Anh Quan vừa mở cửa xe, thì lập tức có một đám trẻ hành khất lang thang chạy tới chen lấn, kéo tay họ xin tiền.
Giáo sư Quan rất ghét những kẻ ăn xin không những tự mình không cho mà anh còn nói với mọi người:
– Không nên cho chúng tiền, như vậy sẽ tập cho chúng quen thói bất lương, chẳng chịu làm việc đàng hoàng mà cứ ngồi không hưởng thụ, tạo ra tệ nạn cho xã hội…
Đám trẻ lang thang nghe nói vậy bèn bỏ đi. Vợ chồng giáo sư Quan tham dự hội yến vừa xong, lúc quay về chỗ đậu xe thì phát hiện chiếc xe đời mới sang trọng yêu quý bị rạch một đường sâu, kéo dài từ đầu xe đến đuôi xe. Thể là Quan tiên sinh bốc hỏa, nỗi giận đùng đùng, anh thầm nghĩ nhất định là đám trẻ đường phố ban nãy. Anh giương mắt nhìn tứ phía, thấy ở dưới gốc cây xoài gần đó, tụ tập bốn-năm đứa trẻ tuổi độ 13 -14. Anh liền xông tới, không cần hỏi rõ trắng, đen; phải, trái; anh giáng cho mỗi đứa một bạt tai. Sau đó lớn tiếng bắt chúng phải khai ra ai đã rạch chiếc xe quý giá của anh. Quan tiên sinh thấy không ai chịu nhận, liền uy hiếp đòi đưa chúng đến sở cành sát. Đám trẻ sợ quá, trong đây có một đứa lớn tuổi nhất, liền chĩ ra phía xa xa, (chỗ có một đứa trẻ hành khất ăn mặc lam lũ đang hướng người ngoại quốc xin tiền) vả bảo đỏ là thủ phạm. Giáo sư Quan đang cơn nộ khí xung thiên liền hùng hổ chạy qua bắt đứa trẻ đường phố nọ đến bên xe, còn đám trẻ kia nhân cơ hội này mạnh ai nấy chạy thoát thân.
Quan tiên sinh hung bạo tát vào hai má của đứa bé, hung hãng thẩm vấn nó vì sao dám rạch xe anh? Hỏi một hồi mới phát hiện một điều: té ra đó lả đứa trẻ câm. Thằng bé không ngừng khoa tay múa chân, mắt rưng rưng lệ tỏ vẻ khiếp hãi, ánh nhìn rất đáng thương. Quan giáo sư không hiểu được ngôn ngữ ra dấu của nó, cho là nhất định vì anh tuyên bố “không cho tiền” mà thằng nhỏ này ôm hận chơi xấu. Vì vậy anh phẫn nộ tung chân phải ra, đá mạnh vào ngực thằng bé câm. “Huỵch” một tiếng, nó ngã chỏng gọng, đưa hai chân lên trời, tiếp theo là “ọc” một tiếng, máu tươi từ miệng nó tuôn ra, người chung quanh vội chạy tới kéo giáo sư ra và mang đứa trẻ câm đi để nó không phải bị đòn nữa.
Đứa bé câm đi rồi, nhưng vẫn quay đầu nhìn trừng trừng về phía giáo sư. Nhãn quang nó đầy căm hận. Sau đó đứa trẻ câm náu thân trong chùa, nó phát bịnh nặng được mấy năm thỉ thành tàn phế. Mọi người đều biết đứa bé câm bản tính thiện lương, chiếc xe hơi không phải do nó rạch, Quan giáo sư đã đánh oan nó.
Cuối năm đó, chị Quan hạ sinh một bé gái, mày thanh mắt sáng, đến ba tuổi vẫn chưa nói được. Tiếp đến chị lại sinh một thiên kim thứ hai, ba tuổi cũng không thể nói. Sau chót, chị sinh bẻ gái thứ ba, vừa sinh là vội mời bác sĩ đến kiểm tra: lại là một cô nương câm nữa! Chị Quan sợ tương lai nếu sinh nữa thì đứa thứ tư, thứ năm… vẫn là con gái câm, nên đã nhờ bác sĩ mổ triệt sản giùm”.
Bây giờ, mỗi lần Giáo sư Quan nhìn ba đứa con gái câm, là nhớ ngay đến cú đá khoe liệt mình dành cho thằng bẻ câm ngày xưa. Ông không quên được cảnh miệng nó ọc máu tươi và ánh nhìn oán hận khủng khiếp…
Đến nay nhớ lại, ông vẫn thấy ớn lạnh, ông đã hiểu ra và không thể không tin đạo lý báo ứng nhân quả mà thiên lý luôn tuần hoàn báo ứng công bằng, đó là quy luật tự nhiên. Đối với hành vi hung tàn 25 năm xưa, bây giờ ông có hối cũng đã muộn màng.
Từ đó, mỗi cuối tuần, Vợ chồng ông Quan đều đến chùa nghe cao tăng giảng kinh và sám hối tội lỗi của mình trước Phật. Họ phát tâm tu thiện tích đức. Đúng như tục ngữ có nói: “Đời người đến 50, mới nhìn ra lỗi lầm năm 49”.
Lời Bình:
Dịch xong câu chuyện này tôi lại nhớ đến câu chuyện nhân quả đời Đường như thế này:
Có một nông phu, bản tính rất ác độc. Một buổi sáng nọ ra đồng thăm ruộng, thấy con trâu nhà hàng xóm, vừa ăn lúa, vừa giâm đạp đám ruộng của anh tơi bời, anh nổi giận xung thiên, liền túm đầu trâu, rút ra con dao bén, cắt đứt lưỡi trâu.
Mười năm sau, anh nông phu lấy vợ, sinh được ba đứa con, nhưng chúng đều bị câm. Anh nông phu đã tìm danh y khắp nơi nhờ chữa trị cho con, nhưng vô phương. Anh không hiểu vì sao con mình bị như thế ? Lòng đau khổ vô củng. Tối đó anh nằm mộng, thấy cảnh mình tàn nhẫn cắt đứt lưỡi trâu. Tỉnh dậy anh hiểu ra tất cả. Vì ác nhân ấy mà con anh phải chịu tai họa như hiện nay. Thực ra thì anh nông phu chịu khổ báo đã đành, các con anh vì sao cũng bị vạ lây? Đây chỉ có thể giải thích theo nhà Phật là do cộng nghiệp, những người đồng tạo ác tương tự sẽ củng thọ báo giống nhau.
| mục lục |
2. NƯỚC LÈO TRỨ DANH
Nơi thành phố thuộc miền bắc Thái Lan có quán hủ tiếu nọ, nổi danh nấu nước lèo rất ngon. Danh thơm vang khắp xa gần, ai cũng tìm đến ăn. Nhân sĩ đương thời đều tấm tắc ca ngợi. Nên dù quán chỉ làm việc có buổi sang thôi, mà sáng nào cũng bán đến mấy trăm tô. Trước 12 giờ trưa là hết sạch. Mỗi tô giá khoảng 15-20 đồng tiền Thái. Mỗi ngày thu vào được khoảng 6 ngàn, lời được ba ngàn.
Cửa hàng trước đây là một tiệm nhỏ mở ven đường, do lợi nhuận ngày càng nhiều, nên chỉ trong vòng mấy năm ngắn ngủi là họ tậu được đất và xây tiệm mới khang trang. Sau tiệm là một hoa viên lớn, buổi chiều nghỉ bán mà vào đây nghỉ ngơi thì đúng là tiên cảnh chốn trần gian.
Chủ quán họ Liên, hai vợ chồng tuổi hơn 60, có đủ con trai, con gái. Các con họ đều đã kết hôn. Cả nhà họ năm người cùng hợp lực kinh doanh, không thuê người làm. Dù nước lèo của họ mùi vị ngon vượt trội các quán khác, khách sành ăn vừa thưởng thức là thích mê, cho nên từ các bậc quan chức, thương gia, dưới đến các bạn hàng, phụ xe ba bánh… đều trường kì đến quán này ăn.
Các tiệm đồng nghiệp không rành chế biến, cố hỏi bí quyết nhà nghề của họ, nhưng vô phương. Tục ngữ nói “Đồng nghề như kẻ địch”, câu này không sai. Các quán hàng địch thủ moi bí quyết nấu nước lèo không được bèn tung tin ác ý rằng: “Nước lèo tiệm đó có bỏ ma túy, khiến người ăn là ghiền, ngày nào cũng phải ăn, không ăn là không được”.
Còn có người quá quắt hơn, âm thầm lén đi thưa lên Cục vệ sinh, một mực khẳng định nước lèo này có ma túy.
Ma túy là chất độc cấm, Cục vệ sinh lập tức phái người tới quán kiểm tra, thử nghiệm. Cuối cùng ra kết luận là: “Không hề có ma túy hay hóa chất có hại nào. Nước lèo được nấu hoàn toàn phù hợp như chủ quán từng báo cáo, là dùng nước rau củ phối hợp với cốt gà, xương heo, hầm lửa nhỏ suốt một ngày một đêm mà có được tiêu chuẩn đạt yêu cầu”.
Được Cục vệ sinh kiểm tra và xác nhận “KHÔNG CÓ GÌ” khiến quán càng nổi danh thêm, càng được ái mộ nhiều hơn, bởi vô tình mà họ được quảng cáo không công, danh tiếng nước lèo của quán ngày càng bay xa vang dội…
Có một vị thân vương của hoàng tộc Thái Lan, là chuyên gia ẩm thực trứ danh, lái xe đến quán thưởng thức. Sau đó, ông ban thưởng huy chương và bảng khen đặc biệt để quán treo trước cửa tiệm cho mọi người lác mắt. Có được “bảng vàng” thân vương ban, chủ tiệm nhờ vậy mà càng thêm có giá, mỗi tô hủ tiếu từ 15 đồng giờ được đôn lên 20-25, chuyện buôn bán của nhà họ Liên càng phát lợi.
Thế gian không có gì là vĩnh viễn bí mật, món nước lèo họ Liên “độc chiếm bá chủ” cuối cùng cũng bị lộ.
Người để bức màn bí mật vén lên chính là Liên chủ tiệm, tin lạ ly kì thiên cổ này đã làm chấn động cả miền đông bắc Thái Lan.
Người đầu tiên phát hiện ra bí mật, chính là anh Tùng, một phụ xe ba bánh. Số là hôm ấy, khi dùng cơm trưa, do anh Tùng uống rượu quá nhiều khiến mặt mày xây xẩm nên chẳng thể chở khách, vì không có tiền nộp cho bà xã, nên anh chẳng dám về nhà. Đêm đó bụng đói meo, anh liền lẻn vào cửa sau của quán, thầm nghĩ sẽ kiếm chác, chôm đỡ thứ gì đó lót dạ.
Khi anh nạy được cửa sau ra, vừa bước vào nhà bếp, ánh đèn từ xa tỏa ra mờ mờ, đủ để anh nhìn thấy một người ngồi lưng hướng ra phía cửa (cũng là phía của anh). Quan sát kỹ thì té ra ông chủ quán đang chăm chú làm việc, anh Tùng bạo dạn bước đến lén nhìn xem, mới thấy rõ lão chủ đang giết ếch. Thủ pháp mổ bụng lấy nội tạng lão Liên làm rất điêu luyện. Các thứ được lão phân ra bỏ vào thùng nhựa và bao nhựa. Trong thùng nhựa chứa đầy thi thể ếch.
Ngay lúc đó lão chủ quán hình như phát hiện là có người, nên đột ngột quay đầu nhìn ra phía cửa, anh Tùng kịp thời nấp đi, may là nhờ ánh đèn mờ nhạt, nên anh không bị phát hiện.
Mặc dù chủ quán không nhìn thấy anh tùng, nhưng anh nhờ nấp trong bóng tối, nên thấy rõ mồn một gương mặt của lão Liên dưới ánh đèn chiếu sáng. Ngay lập tức anh sợ đến xém xỉu. Té ra mặt lão chủ không phải là mặt người, mà mang hình dạng mặt ếch thiệt bự. Mồm giống hệt, mắt lồi, âm thanh phát ra “lét chét” rất kì quái. Đột nhiên anh thấy ông thè lưỡi dài ra rồi rụt vào, giống hệt như cảnh con ếch ăn mồi vậy. Sau đó, ông nhanh chóng lui vào trong.
Anh Tùng kinh hãi đến muốn thét lên một tiếng to, muốn co giò phóng chạy, nhưng hai chân cứ run lẩy bẩy, không làm theo ý anh. Khó khăn lắm anh Tùng mới trấn tỉnh lại được và bò ra ngoài cửa.
Đêm đó, anh sợ quá phát sốt nặng. Mấy ngày sau hết bệnh, anh đem tình hình chứng kiến tối hôm đó kế hết cho mọi người nghe.
Nhưng do anh bình thường hay uống rượu, nên chẳng ai thèm tin lời anh nói. Thực ra, đối với người dân ở miền đông bắc Thái Lan, mấy chuyện ăn ếch, ăn chuột, ăn mèo… là việc thường, đâu có gì kì quái.
Nhưng điều kì quái trong tin đồn chính là dung nhan “ngài” chủ quán. Mấy tháng nay thực khách không còn thấy lão Liên xuất đầu lộ diện nữa. Bình thường thì ông luôn ngồi trước quán chặt thịt gà. Nghe nói ông đang bị bệnh phải vào nhà thương, lúc nào xuất viện về nhà cũng không ai biết. Thỉnh thoảng nếu có ai gặp ông, cũng nhìn thoáng qua trong khoảnh khắc, gần đây ông ít khi bước ra cửa tiệm.
Tình cờ có người gặp ông, họ kế lại:
– Lão chủ mặt mày nhìn giống hệt con ếch, nhưng mà bự hơn nhiều, chân cũng cong cong giống ếch vậy. Miệng cũng y hệt, mắt lồi ra, càng nhìn càng giống con ếch to “khủng”.
Đến đây thì mọi người tin lời anh Tùng là nói thật. Không hẹn mà họ cùng nhau rình, lén nhìn cho được “người hóa ếch” như lão chủ quán. Và cuối cùng, ai cũng biết nồi nước lèo hấp dẫn kia chính là nước ếch. Lạ đến không ngờ là vị nó ngọt thanh như vậy.
Trước đây, chủ quán sợ lộ bí mật nên không dám thuê công nhân, cũng chẳng muốn mượn tay ai làm, vì vậy mà ông phải đích thân giết từng con ếch. Tính ra cả đời ông Liên đã giết không biết bao nhiêu mạng rồi, phải nói là vô số. Hằng ngày ông luôn đối diện với dung nhan ếch, nhất cử nhất động, làm gì cũng dính dáng tới ếch. Tướng theo tâm sinh, hình tùy tâm biến, dần dần mặt mủi ông cũng đổi thành hình ếch.
Ban đầu, mọi người ở chung không để ý, cho đến khi phát hiện ra, thì ông đã biến dạng hoàn toàn. Sau đó, có người nghe những bà con của chủ quán kể lại rằng: “Dạo sau này lão Liên mỗi khi đang ngủ thường kêu hét, gầm rú. Than là ếch đến bu đầy trên thân cắt rứt lão. Cứ chợp mắt là lão bị quấy nhiễu mãi như thế, không thể nào yên giấc được.
Từ đó trở đi ròng rã suốt mấy tháng trường, đêm nào nằm lão cũng bị bầy ếch hiện đến hành hạ đau đớn. Cuối cùng lão Liên phát bệnh điên, kêu như ếch rồi chết.
Sau đó, cả nhà chủ quán nước lèo trứ danh nọ không biết dời đi đâu, chỉ lưu lại câu chuyện này, là đầu đề khiến người ta bàn tán mãi.
| mục lục |
3. NGUYÊN NHÂN ĐÁNG SỢ
Tất cả báo chí hôm đó đều đăng hàng tít náy: “Bác sĩ trẻ Trương Vĩ Lục tự sát vong thân”… khiến người xem khó mà tin được.
Bác sĩ Trương năm nay 29 tuổi, năm ngoái sau khi tốt nghiệp, chàng phục vụ tại bệnh viện chính phủ.
Bác sĩ Trương xuất thân từ gia đình giàu có, cha mẹ hiền lảnh tốt bụng, ba người chị của chàng đều xuất giá, là con trai út, chàng càng được cưng chiều vạn bội. Bác sĩ Trương rất tuấn tú khôi ngô, là một mỹ nam lanh lẹ, có duyên, làm rung động rất nhiều trái tim cô gái.
Con đường gấm nhung còn trải dài ở phía trước, nhìn chàng, thân thuộc bằng hữu đều ước ao được số đỏ gióng vậy, cho nên chẳng ai tin nổi là chàng tự sát.
Vì vậy mà bịnh viện thành lập ngay một đoàn pháp y, đề điều tra về việc tự sát của chàng. Bắt đầu từ bối cảnh gia đình Trương Vi Lục, từ quá trình sáu năm ở trường học, cho đến khi tốt nghiệp vào y viện công tác. Toàn bộ tư liệu ghi chép hơn 500 trang, có thể thấy cấp trên và đồng nghiệp rất quan tâm về việc tự tử của chàng.
Trong số sổ sách báo cáo có một đoạn ghi thế này: “Một năm gần đây, người ta mới bắt đầu phát hiện ra tính chất đại trượng phu hùng dũng oai vệ của Trương Vĩ Lục bổng dưng đổi thay và cử chỉ, hành động, giọng nói của chàng… xem ra có phần giống con gái. Ai cũng nghĩ …chắc là do từ bé chàng sinh trong nhà có ba chị gái, lại công tác kề cận toàn với nữ y tá”…
Vừa rồi khi kiểm tra cơ thể chàng, bác sĩ nói phần Hormone (kích thích tố) nữ quá thịnh, lấn át hẳn hùng tính của nam.
Trong hồ sơ bác sĩ Ngô Uy Xương, người chủ trị cho chàng còn ghi: “Bịnh nhân Trương Vỉ Lục, không thể tiếp thu kích thích tố nam để duy trì cân bằng, thậm chí còn bị “hoạn tính vô năng” (biến giới bất lực). Tiếp theo hồ sơ ghi rằng chàng bị chứng “hoạn” như thế này đã lâu lắm rồi.
Qua điều tra, thấy bối cảnh nhà chàng rất tốt, bản thân chàng thanh khiết, có tự ái cao, tính tình thuộc loại bảo thủ Dù chàng sớm xa rời cha mẹ đế làm việc độc lập, tuy ở một minh nơi phồn hoa đô hội, có dẫy đầy cám dỗ khiến người ta dễ sa ngã như thành phố Bangkok, hơn nữa xung quanh môi trường làm việc của chàng toán là mỹ nhân, vậy mà chàng vẫn giữ thân như ngọc, quả là hiếm có, khó được.
Thêm một báo cáo nghiên cứu có giá trị khác nữa, ghi rõ: “Trương Vĩ Lục là người miền nam Thái Lan, từng thi vào Đại Học Y đạt thành tích hạng ưu tại Băng Cốc, suốt sáu năm học Đại Học Y, chàng ngụ tại ngôi nhà thuê gần trường. Hăng ngày khi điểm tâm chàng thích dùng cà phê, nước ép hoa quả”.
Quan trọng nhất là: “Buổi trưa và tối chàng đêu ăn cơm gà. Đây là món cơm gà Hài Nam trứ danh mà người Thái Lan rất ưa. Không có rau xanh, chỉ dùng thịt gà kèm cơm, là món ăn nhanh vừa tiện nghi lại rất ngon miệng. Trương Vĩ Lục rất ưa ăn cánh và đầu gà, và chàng ăn ròng rã sáu năm”…
Một nghiên cứu có giá trị hơn nữa: “Trước đây nhà nông nuôi gà, ít nhất sáu-bày tháng mới bán ra tiêu thụ. Nhưng bây giờ nhờ nuôi gà theo khoa học, chỉ cần 40 ngày, gà vẫn lớn mau và rất nhanh chóng đạt đủ trọng lượng chuẩn. Ngày xưa gà trống nuôi đến thời kỳ thanh xuân thì không thể phát phì, lớn mập; người ta vì muốn hưởng dụng nó cho ngon miệng, nên đã thiến nó đi; khiến thịt gà vừa béo vừa mập. Với đà phát triển tiến bộ, khoa học ngày nay đã phát minh ra loại thuốc khiến gà và những loại gia cầm khác mất đi khả năng sinh sản. Chẳng hạn như loại thuốc này được bào chế thành viên, nhét vào mồng gà hay phần bắp thịt cánh, ngoái ra thuốc này còn được trộn vào thúc ăn”.
Cho nên trong lúc chúng ta hưởng dụng thịt gà trống béo phì, nào hay nào biết bản thân mình cũng uống luôn thuốc “hoạn” đó vào bụng, hèn gì mà thời nay đàn ông bị bịnh “hoạn tính vô năng” nhiều đến như thế! Tất cả đều là do ăn thịt gà thiến, heo thiến mà “được”1 như thế.
“Trương Vĩ Lục rất ưa ăn cánh gà, đầu gà – song những bộ phận này chính là điểm tập trung dược vật. Cái hại đầu tiên mà dược phẩm này mang đến là: nó ức chế toàn bộ hoóc-môn nam, chính thuốc “hoạn” này đã liên tục ngấm vào cơ thể Trương Ví Lục ròng ră suốt sáu năm. Những dược phẩm này âm thầm tích lũy và phát tác, thành một lượng thuốc “khủng” đên kinh người. Cuối củng ngay cả bác sĩ Trương Vĩ Lục cũng không thể trị lành chứng giới tính bị “hoạn” của minh”.
Như vậy thì làm người còn gì thú vị nữa? Đây chính là kết luận nghiên cứu sơ bộ về nguyên nhân việc tự sát của bác sĩ Trương, cố nhiên là do chàng không biết mà thành vậy, nhưng căn cứ theo bối cảnh Trương gia, ban điều tra còn có được một báo cáo kinh người:
Té ra, ông nội Trương Vĩ Lục cả đời làm nghề hoạn heo, hoạn gà. Đây là việc tại quê nhà. Phụ thân chàng cũng từng theo phụ suốt 2-3 năm. Sau đó do không muốn kế thừa sự nghiệp của ông nội bác sĩ Trương, cha chàng đã từ bỏ nghề “hoạn” đó. Đâu ai biết hành vi thực hiện việc tuyệt chùng này của tổ phụ chàng đã di họa đến đời thứ ba, khiến tử tôn tự sát tuyệt hậu. Vậy thỉ còn ai dám không tin đây là nhân quả báo ứng chứ?
| mục lục |
4. ĐÁM TANG CHÓ
Nơi đại binh nguyên hình tam giác của dòng sông Mê-kông vương quốc Thái Lan, đất đai phì nhiêu, nước mưa tràn đầy, là nơi sản xuất gạo trù phú của quốc gia. Cho nên xưởng chà lúa ở đây rất vĩ đại quy mô, thuộc dạng đại công nghiệp
Lương tiên sinh là Hoa kiều, hậu duệ đời thứ ba của dòng họ Lương, ông cư ngụ không xa thành phố Bảng-cốc nổi danh, kinh doanh hãng chà gạo.
ông Lương vừa bỏ ra hơn mười vạn, để làm tang lễ cho một con chó, câu chuyện này kẻ ra thực rất cảm động.
Hôm nay lả ngày công đức viên mãn (cúng lễ đầu thất của con chó). Chiều tối sẽ cử hành lễ thiêu. Khách đến không nhiều, trước khi hỏa táng ông Lương còn thỉnh cao tăng trứ danh tụng kinh, có quay phim, ghi hình toàn bộ buổi lễ.
Chủ sự còn đặc biệt tặng cho mỗi tân khách một cuốn sách rất đẹp làm kỷ niệm. Bìa ngoài in hình một con chó Thái hùng dũng, đứng bên cạnh là đứa bé ba tuổi.
Chuyện băt đầu từ bốn năm trước khi Lương tiên sinh vừa kết hôn không lâu. Ngày nọ ông cùng vợ ngồi thuyền đến chùa cúng dường tạo phúc. Hôm đó Hai vợ chồng trai tăng xong, lúc lên thuyền thi phát hiện có một con chó té xuống sông, đang thở thoi thóp, ông và vợ vội cứu con chó lên, lau khô mình nó, sợ nó bị lạnh nên nấy khăn lông quấn cho ấm rồi đem về nhà. Hai vợ đồng đều yêu thích con chó cái này.
Năm sau bà Lương sinh hạ được một bé trai. Vừa lúc ấy, con chó cái cũng sinh ra một chú chó đực. Tục ngữ dân gian nói: (Đơn trư cùng độc cấu phú) “Một heo nghèo, một chó giàu”.
Ý nói là nếu sinh một chó thì sẽ giúp chủ nhân phát tài, vận hên. Quả nhiên, không bao lâu thì vận may tới nhà họ. Do chính phủ muốn nông thôn phát triển nên đã cho xây một con đường lộ to rộng trước công xường Lương tiên sinh. Giá đất hai bên đại lộ nghiễm nhiên tăng vọt, may là tổ tiên Lương tiên sinh để lại rất nhiều đất sát bên công lộ. Thương trường địa sản lên ngôi, giá tăng cao không ngờ. Ngoài ra, khi công lộ xây xong, giao thông càng tiện lợi, hãng xay gạo nhân đây làm ăn càng phất, lên cứ như diều gặp gió. Vận may đến bất ngờ như thế mọi người đều quy công về chú chó con, ồng Lương đặt tên nó là “Hảo Vận” và gọi thằng bé con mình là Tiểu Ba.
Hảo Vận ngày một lớn, giao du thân thiết với với cậu chủ nhỏ đồng tuổi mình. Lúc Tiểu Ba chập chững tập đi, thì Hảo Vận nhẫn nại theo sát một bên nâng đỡ, quấn quýt không rời như hình với bóng. Lương tiên sinh nói nó giống hệt như bảo mẫu vậy.
Một buổi chiều nhá nhem tối, công nhân xưởng xay cùng công nhân xưởng khác phát sinh ẩu đả tập thể. Mọi người không ai chú ý đến Tiểu thiếu gia. Cậu bé mới ba tuổi ưa chạy lung tung, do bất cẩn nên té xuống sông. Nhìn thấy Tiểu Ba giẫy giụa, trong chớp mắt đã chìm xuống. Con Hảo Vận cả kinh, nó bất chấp tất cả, liều mạng nhảy xuống sông, dùng lưng đội tiểu chủ lên, Tiểu Ba liền ôm chặt con chó. Nhưng bờ sông dốc cao quá, vô phương leo lên, bốn chân Hảo Vận không ngừng bơi dưới nước, ráng sức đội tiểu chủ. Nhưng do đầu nó bị Tiểu Ba ôm chặt, chỉ có thể lâu lâu hướng mũi lên trời thở. Khi hai vợ chồng ông Lương phát hiện con nhỏ giúp việc (họ thuê chăm sóc Tiểu Ba) cũng đang dí mũi vào đám người gây lộn thì họ vội vàng hỏi:
– Cậu chủ đâu?
Mọi người mới túa ra đi khắp nơi kiếm tìm, kịp thời phát hiện Tiểu Ba và Hảo Vận đang ở trong sông.
Lương tiên sinh vội nhảy xuống nước, bồng Tiểu Ba lên trước, sau đó vớt Hảo Vận lên, lúc này thể lực Hảo Vận không còn chống chọi được nữa, nên chìm xuống, Lương tiên sinh ráng sức cừu và bồng được con chó cưng về nhà.
Con trai ông đã thoát hiểm, Hảo Vận cũng dần dần tĩnh lại.
ưxHảo Vận liều minh cứu tiểu chù, nghĩa cử này không những được chủ nhân cưng yêu bội phần, mà láng giềng đều ngưỡng mộ, ca ngợi Nhưng con Hảo Vận không giống người – không vì được sủng ái mà sinh kiêu ngạo – nó vẫn như xưa, luôn theo sát quấn quýt bên tiểu chủ.
Đang lúc mọi người nhiệt liệt bàn về nghĩa cử cứu tiểu chủ của con chó, thì sự tình bất khả tư nghị phát sinh.
Nguyên là cô tớ gái chăm sóc Tiểu Ba còn trẻ, ham chơi nên bị chủ sai đi lau chùi nhà vệ sinh và tạm thời giao công việc bảo mẫu này cho một bà lớn tuổi, chín chắn hơn lo liệu.
Ba tháng trôi qua, một buổi chiều nọ, bà vú này dẫn Tiểu Ba và Hảo Vận ra vườn rau cạnh công xưởng chơi. Thình lình xuất hiện một con rắn mắt kính, thân mập to bằng bắp tay, dài hơn hai mét, đầu nó ngóc cao nhắm hướng bà vú tấn công và mổ nơi gáy bà một cái. Té ra con rắn này đang ấp trứng, mà các bà mẹ động vật trong thời kỳ hậu sản tính rất hung dữ, luôn sẵn sàng tấn công, vì đó là thiên tính bảo vệ con của tinh mẫu tử.
Rắn mẹ cắn bà vú xong rồi, thi quay sang Tiểu Ba bắt đầu cuộc công kích. Lúc này con Hảo Vận thông minh đang đứng cạnh Tiểu Ba, thấy tỉnh thế nguy hiểm, nó lập tức nhảy lên đứng chăn trước Tiểu Ba (đúng vào lúc con rắn phóng tới mổ cắn), và Hảo Vận đã lãnh thay cú mổ đó. Dù bị thương, nhưng con chó vẫn ráng cắn vào đuôi con độc xà, hai bên quần thảo kịch liệt trên đất.
Trong lúc này bà vú chỉ kêu được một tiếng: “Cứu mạng” thì nọc độc phát tán, bà té xuống.
Bé Tiểu Ba ngây thơ không biết sợ chi, cứ đứng đó nhìn con rắn và chó đấu nhau. Khi công nhân và Lương tiên sinh chạy đến thì mặt bà vú đã chuyển sắc đen không còn nói được nữa. Hảo Vận cũng bị nọc chạy vào tim, mắt nó chảy máu tươi, mất hết sức lực. Nhưng nó vẫn cắn chặt đuôi rắn, nhất quyết không nhả.
Mọi người đập chết con độc xà, nhưng Hảo Vận trúng độc quá nặng, nó đưa mắt nhìn chủ lần cuối rồi tắt hơi.
Nước mắt ông Lương rơi như mưa. ông cử ôm con chó cưng trong lòng mãi. Mọi người lay tỉnh Lương tiên sinh, nhắc rằng trên mình chó có độc. Trong giây phút tống biệt, ông Lương nghẹn ngào dặn dò mọi người phải dùng nghi thức cực kỳ trang nghiêm để tổ chức ma chay cho con Hảo Vận trung nghĩa.
Và tang lễ này được cử hành suốt bảy ngày bảy đêm, long trọng chưa từng có đối với một con chó.
Tang lễ hoàn tất, mọi người đều bị tấm lòng trung nghĩa của con chó làm cảm động. Ai cũng tán thán rằng, nhờ vợ chòng ông Lương bốn năm trước cứu chó, nên ngày nay mới chiêu được thiện báo.
Có thể thấy con người và loài vật (như con chó) có thế sống chung bầu bạn hài hòa. Cùng hỗ tương cứu hộ, thân thiết như tay chân.
Vi vậy con người không nên ngược đãi chó, càng không nên sát hại, ăn thịt nó dã man.
| mục lục |
5. NGƯỜI ƯA CÂU CÁ
Câu cá là hoạt động cực kỳ tàn nhẫn, thử nghĩ xem, nếu như đem móc câu sắc bén đó, đâm vào môi, vào lưỡi của mình, thì sẽ thấy đau đớn đến tận tim phổi. Nghĩa là, dù thế nào người ta cũng vô phương chịu nổi.
Nhưng nhiều người lại lấy việc câu cá làm thú vui, câu không biết mệt. Thậm chí còn thành lập Câu Lạc Bộ câu cá nữa. Cái lý luận “câu cả có thể đào luyện tính tình” là hoang đường, đây là lời của kẻ chằng có chút lòng trắc ẩn.
Lâm Giáp Xuân là công chức của chính phủ Thái, tính rất ưa câu cá. ông là hội viên của Câu Lạc Bộ câu cá. Những ngày nghỉ cuối tuần ông thường dong thuyền ra biển thả câu. Vừa câu vừa uống rượu nhắm với mồi ngon thiệt lả khoái vô kể. Mọi người uống mỹ tửu, ăn cá tươi, cùng hưởng thụ khoái lạc nhân gian cho qua hết ngày giờ.
Mấy năm trước lúc Câu Lạc Bộ mới sáng lập, không khí rất nhộn nhịp sôi nổi, thế nhưng từ năm ngoái trở đi, từ con số 30 hội viên, giờ chỉ còn lại 7-8 người mà thôi.
Câu lạc bộ bây giờ tử khí nặng nề, khiến mọi người ủ ê, không còn hứng thú ra biển câu cá nữa dù Lâm Giáp Xuân là môt nam tử cứng đầu không tin nhân quả báo ứng, ông không có gia đình, không tín ngưỡng, nhưng cũng không thể đem lại sự linh hoạt khiến mọi người phấn chấn hăng hái ra biển câu như hồi xưa. Lý do là vì có hai quái sự liên tục phát sinh.
Việc thứ nhất xảy ra ngay trên thân lão hội viên A Ban. Hôm đó là chủ nhật, A Ban cùng vợ vào đất liền hướng nhạc mẫu chúc thọ. Nhạc mẫu ông vốn là người có máu mặt, có danh vọng ở bản địa. Hôm chúc thọ đó tân khách đến dự chật cửa. yến tiệc hết sức sang, có đủ thịt bò, heo, cá, gà, vịt, ngỗng… Muốn ăn gì đều có nấy. Thực khách hưởng dụng thỏa thích nhưng vẫn không sao ăn hết.
A Ban ưa ăn cá và nội tạng, nhìn thấy trên bàn tiệc có một con cá to, ông rất khoái. Do khi ăn không cẩn thận nhai kỹ, lại ngốn nội tạng cá vào miệng quá nhiều nên vừa nuốt qua thỉ A ban bị mắc nghẹn, ông cảm giác như có vật gì cứng mắc kẹt tại yết hầu, nên quýnh quáng dùng tay kéo ra. Nhưng không tài nào móc ra được. Chính trong khoảnh khắc nuốt không trôi, kéo không ra đó, ông hô hấp cực kỳ khó khăn, muốn há miệng la to cầu cứu cũng không thể.
Em trai ông ngồi đối diện là người phát hiện ra tình huống nguy cấp này trước tiên, nên vội chạy qua phụ giúp, nhưng hai mắt A ban đã trợn trắng, đầu gục xuống, hơi thở yếu dần đi. Mọi người lập tức dìu ông lên xe đi cấp cứu, nhưng mới nửa đường thi ông tắt thở.
Mặc dù người đã chết, nhưng y viện vẫn tiến hành phẫu thuật để kiểm tra nguyên nhân tử vong. Bác sĩ lôi nội tạng cá mắc kẹt tại yết hầu ra…
Chính ngay giây phút đó, các bác sĩ, y tá, hộ lý tại hiện trường thảy đều sợ há hốc mồm, sợ đến đơ mắt, cứng miệng khi nhìn thấy thủ phạm giết người chính là… cái móc câu, đang móc cứng vào yết hầu của A ban. Lạ lùng lá cái móc câu này nằm ở trong nội tạng cá. Xuống đến cổ A ban nó bị ép ló ra, cho nên khi A ban càng dùng sức kéo, thỉ móc câu càng bám chặt. Những thân hữu chứng kiến tình hình kinh khủng này, tất nhiên ai cũng liên tưởng tới sở thích ưa câu cá của A Ban. Hơn nữa kinh nghiệm và kỹ thuật câu của ông khiến tất cả hội viên đều bái phục.Trong lúc người khác không câu được cá. thì ông thu hoạch vô số.
Bây giờ nhìn cảnh hai mắt A Ban trợn trắng, miệng há to, bên cạnh là cái móc câu dính đầy máu, ai nấy đều sợ đến lông tóc dựng đứng, không thể không tin nhân quả báo ứng như bóng theo hình, câu chuyện xảy ra cho A Ban là ngàn chân muôn thật!
Câu chuyện thứ hai còn ly kỳ hơn. hội viên Dương Tỷ Ích là cao thủ câu cá, từng tham gia các hội thi, liên tục hai lần đều giật giải quán quân.
Dương tiên sinh ngoài thú ưa câu cá ra, còn ưa đi xe đạp điện. Hằng ngày, cứ chạng vạng tối là ông chở vợ ra ngoài ven đô hóng gió.
Tối đó khoảng 11 giờ, ông dự lễ tang người bạn thân xong, thì lái xe về nhà. Con đường quen thuộc đến nỗi cho dù có nhắm mắt, ông cũng có thể lái rành rọt. Nhưng thực kỳ quái, chiếc xe hơi đang chạy ngon trớn thì ông bỗng thấy trước mặt xuất hiện một con sông lớn (trước đây chưa hề thấy qua). Để tránh rơi xuống sông, vì đang lái ở tốc độ 120km/giờ nên ông vội vàng bẻ lái đạp thắng gấp. Chỉ nghe “RẦM” một tiếng thật to, xe ông tông thẳng vào cột điện ven đường Đến lúc ông tỉnh dậy thì thấy mình đã nằm trong bệnh viện.
Ai cũng nghĩ Dương tiên sinh lái xe tốc độ cao thành ra bị tai nạn. Tuy điều này xảy ra ngoài ý muốn, nhưng chưa đủ kỳ quái. Kỳ quái nhất là vết thương trên thân thể ông rất mau chóng lành, duy chỉ có môi và vòm miệng là thương tích nghiêm trọng. Cả hàm răng rụng hết, chẳng ăn gi được. Hơn một tháng nay chỉ có thể dùng ổng dẫn bơm thức ăn lỏng vào cổ họng. Còn lạ hơn nữa là vết tét phía trên lẫn dưới của khóe môi – bác sĩ đã khâu 7 lần, mà vẫn không khép lại. Vì hễ khâu xong, đến lúc cắt chỉ, thì hai khóe mép ông lại lở loét sưng phù. Cuối cùng bác sĩ phải dùng chỉ tối tân tẩm hóa chất để may cho kín. Một tuần sau, chỉ tự tan rồi, nhưng môi ông vẫn lở loét, hai khóe cứ ngoác rộng ra như hàm cá. Bác sĩ chủ trị đành thúc thủ bó tay.
Ngót mấy tháng ông bị đau đớn giày vò, thống khổ bất tận, mồm cứ lở loét, há rộng y hệt mồm cá lúc bị móc câu làm tổn thương gây lở vậy.
Hôm nọ, vợ ông như lệ thường đến thăm, vô tình buột miệng nói: “– ôi dào! Mồm ông ngoác to như thế kia, giống hệt mồm con cá mắc câu!”
Mấy từ này đánh động đến lương tâm Dương tiên sinh, giống như một lời cảnh báo. Khiến ông nhớ lại mỗi lẩn mình câu cá, đều kéo rách miệng cá, làm nó lở loét cả vòm miệng. Bây giờ ông mới thực sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau của nó. Thế là ông cùng vợ vội mang đèn hương đi đến chùa, đối trước Phật ông chí thành lễ bái sám hối và phát thệ từ nay về sau không bao giờ câu cá nữa.
Nói ra cũng lạ, từ hôm đó trở đi, môi ông dần dần lành lại, không còn lở sưng nữa. Chỉ một tuần sau thì ông xuất viện. Sau đó ông kể cho các bạn hội viên những gì mình đã trải qua và khuyên họ không nên câu cá nữa.
Từ đó hội viên Câu Lạc Bộ câu cá giải nghệ rất nhiều (giảm sút trọng đại). Không bao lâu Lâm Xuân Giáp cũng từ bỏ việc câu cá và Câu Lạc Bộ giải tán.
| mục lục |
6. THỨC NGON ĐẶC CHẾ
Trong một vùng nông thôn thuộc miền đông bộ Thái Lan, có một nông phu tên A Bang, bà vợ sinh được ba con gồm hai nam, một nữ.Thằng đầu tên ô 9 tuổi, thằng kế tên Hồng 7 tuồi và út gái tên Bạch 5 tuổi.
Hôm nọ, vợ chòng A Bang đến dự lễ nơi nhà một người bà con, bỏ ba đứa nhỏ ở nhà. Nơi chúng ngụ là căn phòng bằng gỗ xây theo kiểu Thái. Cạnh phòng có chất một đống rơm khô. Ngoài ra còn có một ống máng xối hình chữ thập để hứng nước mưa và một hàng lu dùng chứa nước uống.
Nhà ở các hộ nông dân nơi đây xây cách nhau rất xa, phân bố rải rác trong điền viên.
Hôm đó, căn phòng gỗ đột nhiên bốc cháy, láng giềng ở xa chỉ nhìn thấy khói đen bốc cao, lửa vây kín nhà, cả tòa nhà gỗ chẳng mấy chốc bị thiêu trụi, ba đứa trẻ trong nhà do cổng khóa kín không thể chạy đi đâu.
Nghĩ là nước trị lửa, thằng ô lần lượt bổng hai em đem bỏ vào hai cái lu to đầy nước và đậy nắp lại. Sau đó nó cũng nhảy vào một cái lu khác để tránh lửa.
Lúc láng giềng và nhân viên cứu lửa chạy đến thi cả tòa nhà gỗ và bốn đống rơm cũng cháy trụi, còn thiêu chết một con bò bị cột, nhưng không thấy dấu vết trẻ con đâu. Mọi người đều cho rằng chúng đã chạy thoát cả rồi. Khi vợ chồng A Bang về, họ cũng hoảng loạn tìm con, đến tối mò cũng không tìm ra được.
Sáng hôm sau, môt người bà con tên là Luân Bao cũng tới phụ tìm các trẻ, giống như có biết trước, ông vội chạy đến lu nước, dở nắp ra thì kinh ngạc hét to, vợ chồng A Bang nghe tiếng kêu, vội chạy đến xem, thì thấy thi thể của thằng ô, đứa con trai đầu. Luân Bao lại mở tiếp các lu kia, thì lần lượt phát hiện ra xác của Hồng và Bạch. Lúc này hai vợ chồng quá đau lòng, ngã xuống ngất xỉu.
Báo chí và đài truyền hình đều đăng tin thương tâm này. Lúc đó ký giả đài truyền hình phỏng vấn, hỏi Luân Bao vì sao biết ba đứa trẻ chết trong lu?
Luân bao Đáp: – Đêm hôm lửa phát cháy, ông đang ngủ nơi nhà mình bỗng mơ thấy cảnh mọi người đều chạy đi tìm các cháu, bông dưng thấy một lão già chưa từng quen biết, râu trắng dài tới ngực, bảo ông: – Bầy cá ở trong lu nước!
Tỉnh dậy ông thấy rất kỳ, bèn vội vàng chạy sang nhà A Bang, nhào tới dở lu xem thử, không ngờ thi thể các bé ở trong đó…
Nghe đến đây A Bang hét to một tiếng, rồi ngất xỉu trên đất. Khi được cấp cứu tỉnh lại, đôi mắt ông như vô hồn, nhìn ngây dại về xác ba đứa con và lẩm bẩm nói:
– Báo ứng! Báo ứng mà!
Mọi người đều nghĩ ông thương tâm quá độ, thần trí mê muội, không dám hỏi gi.
Theo tập tục ở nông thôn, hễ nhà nào có chuyện là mọi người đồng tâm hiệp lực, phụ chôn cất con A Bang.
Vợ chồng A Bang nội trong một ngày mất hết ba đứa con cưng, đành náu tạm một nơi khác. Tài sản tích chứa đều bị làm mồi cho ngọn đuốc, hai vợ chồng gặp phải gia biến thảm sầu, họ thấm thìa lý vô thường buồn vui ly hợp ở nhân gian nên không chút do dự đổng xin xuát gia.
Ai cũng hiểu và cảm thông cho họ. Nhưng mọi người đều thắc mắc khi nghe A Bang luôn mồm nói “Báo ứng! báo ứng!”… Ông vốn là một nông dân trung hậu cần lao, nhưng đã làm gỉ để bị trách tội nặng như thế? Thật khiến người ta khó hiểu?
Chỉ có A Vu, em vợ A Bang là biết rõ. A Vu nói:
-Anh Bang sống luôn biết giữ hòa khí, nhiệt tâm giúp người. Anh chỉ có tính là rất ưa ăn ngon và tự minh sáng chế món “Rau dồn cá”, chính A Vu nhiều lần phản đối kịch liệt món này.
Thái Lari là xứ gạo, cá. Vào mùa xuân mỗi lần gặp mưa dông là thời kỳ cá đẻ trứng. Mười mấy ngày sau cá con lớn bằng đầu đũa, A Bang ưa dùng vải mùng may thành vợt, lùng bắt đám cá này. ít thì có mười mấy con, nhiều thì hơn trăm mạng, sau đó anh bỏ cá con vào trong thùng nước.
Lúc cần nấu, thi chọn các cọng rau to lòng, cắt bỏ các đốt mấu đi, thành là một ống trống suông. Sau đó đổ nước lạnh vào trong nòi, thả rau và cá con vào, chụm lửa nhỏ riu riu. Do nước lạnh từ từ chuyển nhè nhẹ qua nóng, nên mới đầu đám cá còn hồn nhiên bơi tung tăng, nước ấm dần dần tăng độ, cá nhỏ gặp lòng rau rỗng liền chui vào đó trốn nóng…
Tận mắt chứng kiến cảnh lũ cá bị giết tàn nhẫn, chết thảm thương… nhưng vợ chồng A Bang chẳng mảy may động lòng trắc ẩn, ngược lại còn tự hào đắc ý vỉ mình biết sáng tạo ra món ăn cực kỳ đặc biêt và ngon. Mỗi một khúc rau trống đều có một đám cá chui vào, đem ra trộn với gia vị thì ăn ngon cực kỳ, không gì sánh.
Có lần A Bang làm ruộng, anh dùng lưới vớt hết bầy cá con, đột nhiên có hai con cá lớn (là cha mẹ của chúng) nhảy lên bờ. Có thể là do nhìn thấy bầy con bị bắt đem đi, chúng bi thống đến cực điểm mà nhảy lên tự sát để kháng nghị. ABang lúc này nhân tính mê muội, cho rằng khi không có được của bất ngờ, liền bắt luôn hai con cá đó đem về nhà nấu ăn”.
Con người quen tạo sát nghiệp ác độc, lả do lương tâm bị vùi lấp mê muội, chỉ khi thấy cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái mình chết… mới kêu gào khóc lóc, hô thiên gọi địa đau đớn thảm sầu. Chẳng hề nghĩ đến loài vật cũng có nghĩa tình cha mẹ, anh em, phu thê, con cái…
Cổ thi nói:
Trăm ngàn năm nay trong chén canh
Oán sâu như biển hận khó bình
Như nay báo ứng nhân quả xoay chuyển đến khiến A Bang gánh phải niềm đau chôn con, nếm mùi khổ tự thân chứng kiến một bầy con bị chết cả, sao không khiến anh ta thối tâm nản chí chứ?
Một thi nhân thời cồ đại đã lâm thơ ngăn sát thế này:
Ai bảo chủng sinh mệnh nhỏ nhoi
Chỉ là xương thịt với da thôi?
Xin anh chớ bắt, săn, giết chúng
Tình cảm chúng đâu có khác người!
Nhân loại hằng ngày đều tự làm tăng thêm nghiệp sát oan trái. Khi chúng ta bịnh nằm tại y viện hay trên bàn mổ, ngay khi đỏ chúng ta có thầm tự vấn, có tự hỏi rằng: “Cả đời mình đã từng ăn bao nhiêu con gà, bao nhiêu con vịt, bao nhiêu heo, bao nhiêu bò… Bao nhiêu loài đã táng mạng vào bụng chúng ta chưa?” – Và “Hôm nay chính là ngày báo ứng đến”… người vào thăm bịnh cũng cần nên phản tỉnh như vậy.
Nếu như nhân loại cỏ thể tự vấn mình đến cùng, thì sẽ phát sinh tâm từ, tâm sám hối và nghiệp sát tự nhiên sẽ giảm cũng như những chứng bịnh oan nghiệt kỳ lạ sẽ dần tiêu tan.
| mục lục |
7. NGƯỜI CHÂN VOI
Thái tiên sinh năm nay 67 tuổi, người Triều Châu, năm 1941 Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, quê nhà bị vây hàm, sinh hoạt bị ép ngặt, thời thanh niên ông ly hương qua nước Thái Lan mưu sinh. Hiện đang cư ngụ tại miền trung Thái Lan. Sống bằng nghề buôn bán. Hai chân ông bịnh giống như chân voi, đã 9 năm rồi.
Thái tiên sinh rất ưa ăn thịt ngỗng và uống rượu, hằng ngày mỗi tối ông dùng một mâm thịt ngỗng và nửa vò rượu. Ngày nào cũng thế.
Mười năm trước ông theo đoàn du lịch đến miền đông bắc Trung Quốc du ngoạn vả được ăn qua một lần món chân gấu vang danh cỗ kim, khiến ông ra về cứ nhớ nhung mãi. Tiếc lả chì có lần đó, vì sau khi về đến Thái Lan thi ông không còn dịp thưởng thức món chân gáu quý giá đó nữa. Cho dù là vậy Thái tiên sinh vẫn ưa ăn chân ngông, vỉ nó có chút mùi vị tương tự. Từ đó ông thường dùng chân ngỗng nhắm rượu cho đỡ nhớ chân gấu.
Sau này có người bày ông cách dùng chân ngỗng, nói rằng không những mùi vị có thể ngon ngang chân gấu, mả còn cỏ thể giúp bổ tinh, tráng khí, dưỡng thần… là phương pháp bí truyền của các quân vương thời cổ đại.
Thế là Thái tiên sinh học cách chế biến chân ngỗng. Tại trên cái bàn sắt, chung quanh có lan can bao kín. ông bắt con ngỗng sống thả lên bàn. Đề nó đứng như vậy rồi sau đó nổi lửa đun củi bên dưới nung nấu dần dần. Tùy theo nhiệt độ gia tăng, bàn sắt từ từ nóng lên, con ngỗng dần dần chịu hết nỗi, bèn co một chân lên. Nhiệt độ càng tăng cao, hai chân ngỗng đều chịu hết thấu, phải vừa vừa co vừa buông, giống như khiêu vũ vậy, lúc này ngỗng có muốn chạy trốn cũng không được vỉ chung quanh đã rào kín. Đợi bàn sắt nóng đến đỏ rực, thi hai chân ngỗng nhảy liên tục như điên – như cuồng phong bão vũ – Nó liều mệnh mả nhảy, chi có nhảy vả nhảy thôi! Sau đó nó nổi khùng tông lung tung, cổ giương ra hết ga, phát ra tiếng kêu thê thảm, ai oán rồi té xuống. Bây giờ thì hai chân nó bỏng đỏ sưng vù, nhưng chưa tắt hơi. Thái tiên sinh tháy vậy, liền nhanh nhẹn chặt chân nó đi, ngỗng đau đớn ngất xỉu rồi tĩnh dậy, lại tiếp tục hôn mê rồi chết. Nhưng lúc này Thái tiên sinh bất quản, chỉ quan tâm đến việc đem chân ngỗng ra ngoài rửa sạch rồi nấu với thuốc, chụm lừa riu riu.
Theo truyền thuyết, khi con ngỗng “vũ” trên bàn lửa xong, toàn thản khí huyết đều tập trung xuống đôi chân, thịt ngỗng cũng biến thành vô vị, không có giá trị dinh dưỡng bổ béo gì. Lửa bàn sắt nung nấu khiến máu huyết toàn thân đều tập trung xuổng chân nỏ, gọi là “chân ngỗng luyện đan”, Thái tiên sinh cứ thế mà ăn “chân ngỗng luyện đan” mấy năm ròng.
Sau đó chân ông phát bịnh, vừa đỏ vừa sưng phù giống hệt chân voi. Từng khớp xương trên thân đều đau đớn, bác sĩ nào cũng khám qua, uống đủ thuốc đông y lẫn tây y mà vẫn vô hiệu. Một ngày chân ông đau hết 24 giờ, cả năm chịu đau 365 ngày, thống khổ này giày vò hành hạ ông suốt 6 năm ròng rã. Khổ đến không chịu nổi. Nhiều lần ông muốn tự sát, may được hiền thê giữ lại và hiểu tử khuyên lơn, ông mới ráng kéo dài hơi tàn.
Một đêm nọ ông mơ thấy một bầy ngỗng không chân tìm đến, hung bạo mổ cắn. Lúc tỉnh dậy, toàn thân ông xuất hạn mồ hôi dầm dề, ông liên tường đến bịnh của mình – ắt là có liên quan đến việc ăn chân ngỗng – Vì ông đem con ngỗng còn sống, nhốt trong bàn sắt nướng nó, chứng kiến nó “khiêu vũ” trên lửa thảm thương. Càng nghĩ càng “tim kinh thịt run”. Bất giác ông nhìn xuống đôi chân sưng đỏ của mình: – ôi chao! Giống hệt như chân ngỗng mới vừa khiêu vũ nhảy nhót trên lửa xong thì bị cắt đi vậy!
Chinh do thèm khát ăn chân ngỗng mà ông đã tạo nhân ác, nên bị hồn quỷ cùa ngỗng đòi nợ. Báo ứng! Báo ứng! Không ngờ nhân quả báo ứng nhanh như thế. Bây giở lương tâm tỉnh giác, ông nhờ vợ dìu ra ngoài cổng, quỳ xuống chí thành hướng trời cao sám hối. ông phát thệ nguyện: “Từ ngày nay trở đi không sát sinh, không ăn thịt, nguyện thanh khẩu, trường trai, ăn chay đến chết!”. Bà vợ ở bên cạnh cũng phát nguyện ăn chay theo ông.
Nói ra cũng lạ, kể từ sau khi ông hướng trời sám hối, lập nguyện xong, chân không còn sưng đau nữa. Chỉ có hình dạng bên ngoài nhìn thấy rất khó coi, cử động bị khó khăn thôi. Đến nay ông không uống thuốc hay tìm bác sĩ chữa bịnh nữa, bởi vi ông hiểu đây chính là chứng cứ oan gia tìm đến báo oán, cho nên không muốn chữa trị làm chi. Thôi thì cam chịu lưu cái chân “voi” này làm bằng, để cảnh giác người sau.
Chớ vì dục vọng ham sướng miệng nhất thời mà sát sinh, phải biết thức ăn vừa qua cổ họng là biến thành chất thải, nếu tạo ác nghiệp sẽ bị báo ứng mãi mãi không ngừng.
Đúng như thánh xưa từng nói:
Họa phúc không cửa, do chính ta tự chiêu Báo ứng của thiện ác, như bóng tùy hình! Thái tiên sinh nếu được thì nên làm nhiều việc thiện, tạo công lập đức – vi chỉ có công đức mới có thể giúp tiêu oán giải nghiệt, nghiệp hểt bịnh trừ.
| mục lục |
8. BÁN RẮN MỐI
Ngô tiên sinh là Hoa kiều ở Thái Lan, là thương nhân thu mua thổ sản, do nguồn vốn ít, nên chỉ có thể mua liền bán ngay, vì vậy lợi nhuận không nhiều.
Gần đây có người giới thiệu ông thu mua rắn mối, lợi nhuận rất cao. Nhưng Ngô tiên sinh chỉ làm có ba tháng thì không chịu làm nữa.
Bạn bè đều tiếc cho ông, gặp việc có lời cao mà không chịu tiếp tục, lại cam tâm đi làm những việc kiếm lời ít ỏi như thu mua hành tỏi …
Nhưng Ngô tiên sinh vẫn không hề tiếc, ắt hẳn là có nguyên nhân.
Vi sao thu mua rắn mối lợi nhuận hết sức cao? Thế thì phải bàn từ món “Rượu tắc kè đại bổ”.
Trong bản thảo của danh y Lý Thời Trân ngày xưa có viết: “Tắc kè bổ phế, ích khí, bổ thân, ích tinh huyết, định suyễn, ngưng ho.
Đông Y trị đàm suyễn đều dùng tắc kè làm thuốc chính, nhân đó mặt hàng dễ bán trên thị trường là rượu tắc kè đại bổ.
Tắc kè được mua về bào chế với thuốc và ngâm rượu, nhu cầu ngày càng tăng, tắc kè bị bắt quá mức hầu như sắp tuyệt chủng. Thế là niệu thuốc bèn cho dùng rắn mối thay thế Tắc Kè. Bây giờ ở Trung Quốc rắn mối bị bắt cũng gần tuyệt chủng. Cho nên nhà thuốc bèn chuyển hướng thu mua rắn mối ở Thái Lan. Nông dân miền đông bắc Thái Lan những lúc rảnh vụ mùa thì xúm nhau đi bắt rắn mối để gia tăng thu nhập.
Có người thậm chí bỏ luôn nghề nông, chuyển sang nghề bắt rắn mối làm giàu. Trong đây có nhà Tố Vượng là bằng chứng điển hình.
Vợ chồng Tố Vượng và con trai, tổng cộng là ba nhân khẩu, ngày xưa họ rất nghèo, phải thuê ruộng mà làm. Nhưng từ khi chuyển qua nghề đi bắt rắn mối rồi, thì trong vòng ba năm ngắn ngủi, họ đã có hơn mười mấy mẫu đất, còn mua được một xe vận tải nhỏ. Có lợi nhuận nồng hậu như thế này, dân làng đều ham, thế là phong trào bắt rắn mối dâng cao như thủy triều.
Nhưng mà nông dân mỗi ngày có bắt nhiều lắm thì chỉ được hơn mười con rắn mối. Trong khi Tố Vượng giàu có thấy rõ, y còn có tiền gởi ngân hàng. Bởi vì ngoài việc tự bắt rắn mối ra, Tố Vượng còn thu mua rắn mối sống của dân làng bắt được đem về sấy khô, sau đó mới bán đi. Số rắn mối chết trong tay gia đình Tố Vượng hằng ngày ước tính có tới mấy trăm.
Có hai nguyên nhân thúc đẩy Ngô tiên sinh bỏ nghề thu mua rắn mối.
Nguyên nhân thứ nhất: Hôm nọ Ngô tiên sinh tình cờ đi ngang qua nhà Tố Vượng, chứng kiến cảnh Tố Vượng làm rắn mối khô.
Rắn mối sống được y bắt và thu mua đem về. Sau đó dùng dao mổ bụng, moi nội tạng Nhưng lúc này rắn mối vẫn chưa chết, Tố Vượng bèn dùng que tre vót nhọn đâm xuyên qua miệng nó thẳng tới đuôi, khiến nó không ngừng giẫy dụa, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng vào người. Sau đó Tố Vượng mới đem rắn mối đi phơi nắng. Khi Ngô tiên sinh chứng kiến hoạt cảnh tàn nhẫn này, ông không khỏi rùng mình bèn quay đầu đi thẳng, không dám ngó lại nữa.
Nguyên nhân thứ hai: Vào tháng ba năm nọ, nước Thái Lan hằng năm có lễ tát nước toàn quốc đều được vui chơi. Hôm đó Ngô tiên sinh từ Chiềng Mai (Chiang mai) về Băng Cốc, khi qua con đường đèo vùng núi ông chứng kiến một tai nạn bi thảm. Chiếc xe vận tải nhỏ bị lật nhào xuống vực sâu ven lộ, hiện trường có ba người chết, đó là gia đinh Tố Vượng, gồm hai vợ chồng và đứa con trai.
Hôm đó mặc dù là lễ tát nước, nhưng Tố Vượng vẫn không nghỉ làm, tiếp tục lái xe đi thu mua rắn mối, kết quả cả nhà bị tai nạn ngay trên con đường đèo, xe hàng hóa lật nhào xuống vực sâu. Vợ con Tố Vượng bay ra khỏi xe, chết không toàn thây. Lúc chết mắt vẫn còn giương to, trợn trừng, giống như đôi mắt rắn mối lúc chết vậy. Càng kinh khủng đến không dám nhìn nữa là bản thân Tố Vượng, y từ trong xe bay ra nhanh như đạn bắn, không nghiêng không lệch lại nhè rơi xuống đúng ngay cọc cây trúc nhọn mà công nhân sửa đường vừa chặt phía vực sâu ven đường. Tố Vượng bị cây xuyên thẳng qua miệng tới hậu môn, thảm trạng giống y như Tố Vượng đã làm với những con rắn mối.
Ngô tiên sinh tận mắt chứng kiến thảm cảnh cả nhà Tố Vượng chết quá kinh khiếp, ông sợ đến nỗi gai ốc rùng mình, chỉ biết buột miệng nói: – Báo ứng! Đúng là báo ứng!
Từ đó ông bỏ hẳn nghề liên quan đến mua bán động vật.
| mục lục |
9. CÁ “CÂU” NGƯỜI
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện, nên bịnh nhân phải đi từ sáng sớm tới bịnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
Một ngày chủ nhật nọ, bịnh nhân cần khám đều đã khám xong, nên chiều nay xem như bác sĩ được rảnh rang. Bỗng một y tá cuống quýt hướng Viện trưởng báo cáo: – cỏ người bị măc xương cá nơi yết hầu, đang chờ cứu gấp, xin viện trưởng đến cho!
Đó là một thanh niên hơn 20 tuổi, hô hấp đã ngừng, thân thể vẫn còn ấm, sắc mặt tái nhợt hiện vẻ đau đớn và sợ hãi tột độ. Theo lời người nhà và thân hữu bịnh nhân kể, thỉ lúc đưa vào viện anh mới tắt hơi. Mặc dù người bịnh đã chết, nhưng chiếu theo quy luật của bịnh viện, cần phải giải phẫu để làm rõ nguyên nhân tử vong và tiện cấp giấy chứng tử. Sau đó, bác sĩ lắng nghe người nhà kể lại quá trình xảy ra cái chết trí mạng.
Thanh niên bị mắc xương cá chết tên là Thinh, sáng sớm hôm nay cùng mấy người bạn trai ra đồng bắt cá. Do đem qua mưa lơn, đồng mộng ao mương gì cũng ngập nước, cá tôm cỏ đầy, nên ai cũng bắt được rầt nhiều cá tôm Thịnh bắt được một con cá diếc núi, lại nhìn thấy trưởc mặt có một con cá chép to, trong lòng quá mừng bèn bước vội tới bẳt cá chép, lúc này tay anh đang cầm cả diếc, không biết thả đâu cho ổn, nhưng không thẻ buông nó ra, trong giây phút vội vàng, anh quyết định đưa cá lên miệng ngậm. Không ngờ con cá nhỏ lại chui tọt vào cè, và “cắm dùi” nơi cổ họng anh. Thịnh thấy cổ họng quá đau, liền dùng tay móc ra, nhưng đã quá muộn, cả mình con cá đều nằm nơi yết hầu, kéo ra không được.
Loài cá diếc núi này nhỏ nhắn và có rất nhiều ở đồng ruộng Thái Lan, thân mập, dài khoảng 2-3 thốn, vảy nó màu hoàng kim, sáng lấp lánh nhưng rất cứng và sắc. Nếu vuốt theo chiều thuận thì mình nó trơn, nhưng kéo ngược lại thì vảy sẽ thành những móc câu ghim chặt.
Vi vậy khi Thịnh càng lôi con cá ra, tức là càng bị các “móc câu” này phát huy đại tác dụng khiến anh đau chí tử. Loại cá này đặc biệt sống rất khỏe, dai. Nó có thể rời nước bò lên tuốt đỉnh núi vì vậy mới gọi nó là cá diếc núi.
Chưa đầy mấy phút, Thịnh bắt đầu hô hấp khó khăn, con cá cứng đầu trụ ngay tại yết hầu, nuốt không được, nhổ không ra, muốn hét to cũng không thẻ, Thịnh đành dùng tay chỉ vào miệng, hai mắt trợn trắng,
Mấy người bạn thấy vậy hoảng kinh, vội vạch miệng Thịnh đẻ đem cá ra, nhưng vô phương. Đành giương mắt nhìn Thịnh thống khổ co giật.
Một người bạn vội kêu xe taxi tó. chõ Thịnh vào bịnh viện cấp cứu, nhưng đi được nửa đường thỉ chàng tắt thở.
Lúc này y viện đang phẫu thuật. Bác sĩ rạch cổ Thịnh lấy ra con cá diéc núi, nó vẫn chưa chết. Y tá đem nó thả xuống ao trước bịnh viện hóm hỉnh nói:
– Nếu như cảnh sát tra án thỉ sẽ truy bắt hung thủ, ngươi hãy xuống ao nước lánh đi nhé!
Còn thi thể của Thịnh thì người nhà lãnh đem về.
Thịnh bị mắc cá sống chết đi, gia đinh làm tang lễ cho anh. Theo phong tục Thái Lan, người chết 7 ngày thì đem thiêu,
Thịnh chết trẻ bất ngờ, khiến nhiều người thương tiếc. Nhưng sáng hôm đó ngay lúc cử hành lễ hỏa táng cho Thịnh, lại nghe tin có người bị cá diếc núi làm chết nữa, thực sự quá bất ngờ. Và còn bất ngờ hơn nữa, khi người chết là ông Thông – ba của Thịnh – cũng bị cá diếc núi mắc kẹt nơi cỗ y như thế, và do nuốt – nhổ không xong, vô phương hô hấp nên dẫn đến tử vong. Giống y chang kiểu chết của Thịnh,
Đây quả là chuyện cực kỳ lạ lùng trong ngày đó, gây chấn động toàn huyện, toàn tĩnh.
Bởi vì hôm đó gần tối mới cử hành lễ hỏa táng. thân hữu đều đến dự. ông Thông ba của Thịnh muốn chuẩn bị tiệc đãi khách, nên tờ mờ sáng đã ra mương bắt cá. Để tiện bắt cá tôm, trước tiên phải tát bớt nước trong mương đi. Lúc đó cá lớn cá nhỏ bị dồn ép, chen nhau quẫy đạp không ngừng, cứ dùng rọ mà chụp bắt nó. ông vưa bắt cá, vừa lớn tiếng kêu vợ cầm thùng ra đựng cá…
Kể ra thỉ chậm, nhưng lúc đó diễn tiến rất nhanh, ngay lúc ông Thông hả to miệng gọi vợ, thì bỗng có một con cá diếc núi nhảy lên cao, không nghiêng không lệch, rơi đúng ngay vào miệng ông. ồng Thông bị nạn bất ngờ, hoảng kinh, vội vận dụng toàn lực khạc nhổ cá ra và đưa tay móc… nhưng con cá diếc núi có sức sống mạnh mẽ dẻo dai đã chui thẳng vào yết hầu, trụ lại đó không thèm đi tiếp nữa.
Ồng Thông được người bồng lên bờ mương. Lúc này hai mắt đã trợn trắng, trên đường đưa đến bịnh viện thi ông tắt thở.
Đây thực là chuyện lạ có một không hai nên được đồn vang khắp toàn thôn, toàn huyện, rồi toàn tỉnh.
Y viện trong một tuần ngắn ngủi đã phải xử lý tình huống tử vong của hai cha con ông Thông.
Việc này phải nói là chấn động và khó hiểu. Vì vậy Viện trưởng đến nhà tang quyến chia buồn, và cất công tìm hiểu vi sao cả hai cha con trong bảy ngày lại bị cá sống hại chết?
Té ra gia đỉnh ông Thông, tỗ tiên mấy đời đều cư ngụ ở đây. Hễ rảnh vụ mùa thỉ bắt cá, nuôi cá làm nghề phụ. Nếp nhà nhờ đây mà giàu có.
Ông Thông bắt cá phơi khô đem bán, nghĩa lả khi bắt cá còn sống, ông dùng que tre đâm từ miệng cá đến cổ họng nó, mỗi que đâm từ 5-10 con, ông dùng lửa sấy hoặc phơi nắng. Mỗi xâu cá được treo nơi khung tre, chờ tiêu thụ.
Từ tổ phụ đến Thịnh là bén đời, chuyên làm như vậy.
Dân làng thấy ông Thông dùng tre nhọn đâm yết hầu con cá sống khiến nó giẫy giụa đau đớn, thù đoạn tàn nhẫn thảm đến chẳng nỡ nhìn.
Ngàn vạn lần cũng không thể tưởng được là cha con họ lại bị cá sống hại chết giống y nhau theo kiểu này.
Nếu ngay đây mà đối chiếu cảnh: “Người móc cá, cá móc người”, thì đây chính là diễn tiến lạ lùng của báo ứng. Đúng như nhà Phật từng nói: “Nhân quả báo ứng không hề xử oan người”, có thể nói “Nhân quả xoay chuyển rất công bằng”. Xin mọi người cảnh giác, ngàn vạn lần chớ nên gieo nhân ác.
Tại môt bịnh viện huyện nọ ở Thái Lan, bác sĩ Viện trường kiêm Thường vụ chuyên khoa, kiêm cầm dao mổ. Lần nọ Viện trưởng kể lại câu chuyện lạ lùng về một ca mổ, khiến người tỉnh giác phát tâm hướng thiện.
Viện trưởng nói: -Tôi từ hồi làm bác sĩ tới nay, chưa từng gặp qua, cũng chưa từng trị qua loại bịnh kỳ lạ này. Người bị bịnh quái ấy, trong vòng ba năm thỉ bị mổ hết 5 lần.
Và mỗi lần một nghiêm trọng hơn. Cuối cùng thì ngay cả tay, chân đều phải cưa bỏ. Biến thảnh người tàn tật còn một tay một chân.
Vị bịnh lạ này tên Văn Lai, một lần nọ anh bị ba ba cắn vào tay làm bị thương ngón út. Mới đầu đến bịnh viện chỉ rịt thuốt cầm máu, cho là không có việc gi, nhưng nửa tháng sau, nơi đốt ngón tay bị thương bắt đầu viêm, sưng phù đau đớn, bác sĩ kiềm tra xong, chẩn đoán là vi khuẩn độc ăn tới xương, cần cắt bỏ ngón út để tránh độc lây lan làm hại tính mạng. Thế là cắt đi, còn lại 9 ngón tay.
Chưa được nửa năm, Văn Lai ra biển du ngoạn, thật không may, lại bị một con ba ba cắn bị thương ngón chản út.
Mấy ngày sau chân phát viêm, sưng đau, lại đến y viện chụp X quang thì phát hiện độc lan tới xương, phải cắt bỏ ngón chân út, để được an toàn.
Thời gian chưa được một năm, ngón tay út và chân út đồng phát viêm, sưng đau, Văn Lai lại đến y viện xin khám chụp X quang, ôi, không được rồi, lần này độc có khả năng hình thành ung bướu, cần cắt bỏ bàn tay và bàn chân đi. Người bịnh đồng ý tiến hành phẫu thuật.
Văn Lai gặp bất hạnh, nhiều người đều xôn xao bàn tán, nói quá lạ kỳ. Thế nhưng việc kỳ hơn nữa lại nối đuôi nhau xảy đến.
Nguyên là một ngày nọ, con trai của người quen thế phát làm tu sĩ, Văn Lai theo mọi người tham dự lễ xuất gia. Bởi vì lễ thế phát ở Thái Lan thường cử hành ỉúc 4-5 giờ sáng, cho nên người tham dự phải đến ngủ lại tại chùa cho tiện bề dự lễ.
Họ cùng ngủ chung trong điện Phật có đến khoảng 40-50 người nhưng xui xẻo lại giáng ngay trên mình Văn Lai.
Có một con chuột, trong mấy mươi người đang say giấc nồng đó nó lại nhè ngay vết thương nơi cái chân bị cưa của Văn Lai mà cắn cho một phát. Văn Lai đau quá hét to và rên rỉ làm kinh động cả đám người đang ngu Mặc dù chuột chỉ cắn một chút ngoài da, làm chảy ra tí xíu máu, nhưng mọi người bắt đầu bàn tán. họ nói: -“Chuột chỉ cắn những vật không có mạng sống, ai mà ngẫu nhiên bị chuột cắn, chứng minh người đó chỉ là một cái thây không có linh hồn. cho nên con chuột mới dám cắn họ”…
Mọi người bàn tán um trời, khiến Văn Lai thêm hoảng kinh bất an, anh thầm nghĩ có lẽ mình không còn sống lâu nữa! Mặc dù có người an ủi anh chẳng nên mê tín như vậy, nhưng anh vẫn cảm thấy mạng sống đang bị uy hiếp, hơn nữa ở chỗ hai vết thương bị cưa nơi tay và chân cứ âm ỷ ngứa đau hoài.
Thế là Văn Lai bèn tới y viện khám.
Bác sĩ kiềm tra tỉ mỉ, nói: – Không xong rồi, phim chụp X quang hiển thị, hai chỗ nơi vết thương đều bị độc cũ lan đến xương. Giống như lần trước, ung bướu đã lây lan rất xa, nếu không căt cánh tay và ống chân thỉ không được. Thế là lại phải cắt bỏ, tay tính từ khủy cánh trở xuống và chân cắt từ đầu gối trở xuống.
Trong vòng ba năm, chỉ mình Văn Lai thôi mả bác sĩ phải khai đao động thủ đến 5 lần. Bác sĩ Viện trưởng, người đứng mổ cho bịnh nhân, nghĩ rằng ngày trước ắt anh có làm chuyện gì kỳ quái, bèn đặc biệt sưu tập, điều tra về lý lịch, thân thế Văn Lai. Và cuối cùng bác sĩ biết được rốt ráo như sau:
“Văn Lai, 43 tuổi, làm nghề nồng kiêm công nhân xây dựng.
Binh thường tính ưa uống rượu, ưa ăn cá sông, đặc biệt thích ăn các loài rùa, ba ba v.v…
Văn Lai nghe người ta nói: “Nếu như ai ăn từ 10 đến 20 con ba ba, thi suốt đời không bị bịnh phong thấp hay bịnh thời tiết gì nữa, lại còn được nhuận âm bổ dương… Vì vậy mà anh thường ăn ba ba xào ớt, phối hợp với một bình rượu trắng. Văn Lai tha hồ hưởng thụ cho sướng miệng. Suốt hai mươi năm nay anh đều ăn như thế, ăn không biết ngán.
Một hôm Văn Lai ra chợ mua được một cụ ba ba to “khủng”, nặng tới mười mấy ký. Anh mừng như bắt được vàng. Của quý hiếm này tất nhiên là không thề ăn một lần mà hết ngay được, phải cất làm sao để có thể hưởng thụ dần, mà không cần phải bỏ vào ngăn đá bảo quản…
Thế là Văn Lai nghĩ ra phương pháp tuyệt diệu: “Cắt ba ba ra ăn dần”. Bởi vì rùa và ba ba là loài có tuổi thọ cao, giỏi chịu đựng nên sống rất lâu, khó mà chết ngay được. Nếu như nhốt nó không cho ăn, thông thường nó vẫn có thè sòng đen nửa năm.
Phương pháp ẩm thực tuyệt chiêu cùa Văn Lai là, nếu hôm nay ăn bao nhiêu thịt, thi chì cắt bấy nhiêu. Sau đó quẹt vôi lên chỗ thịt vừa cắt để cầm máu. Như thế con ba ba này có thẻ để ăn dần đến 10 ngày hay nửa thảng mà nó vẫn còn sống, cuối cùng thì cắt đầu nỏ ăn hết.
Từ hôm Văn Lai nghĩ ra cách ăn “mới mẻ” và thực hiện thành công rồi thì kể từ đó, cứ y theo cách này mà hành sự và anh đã ăn không biết bao nhiêu con ba ba rồi.
Có người tốt bụng nhắc nhở anh, thủ đoạn này quá máu lạnh và tàn nhẫn, quá vô lương tâm sẽ bị ác báo! Nhưng anh bất kể! Chỉ cần có thịt ba ba tươi ngon là đủ.
Cho đến lúc thân thể của anh bị cắt, cưa ra từng kỳ, nếm trải mùi vị đó, anh mới biết đây là báo ứng hiện đời đang giáng xuống thân mình. Nhưng có hối cũng muộn màng”.
Bác sĩ Viện trưởng gom tư liệu sưu tập được, xem tỉ mỉ rồi viết ra câu kết luận:
“V học vô phương giải thích những câu chuyên báo ứng nhân quả có thực như thế này!”
| mục lục |
10. TIỂU THƯ KHỈ
Tại một thôn làng nọ thuộc miền nam Thái Lan, có chàng thanh niên họ Lưu cử hành hôn lễ tân nương là một cô gái có biệt danh “Tiểu Thư Khỉ”.
Nguyên lai, mọi người đều cho rằng “Tiểu Thư Khỉ” lả cô gái cực kỳ xấu xí, hay một nàng thân thể đầy lông, hình dạng giống y như khỉ nên mới có biệt danh này.
Nhưng lúc đôi tân nhân bái đường xong cùng sánh vai nhau ra ngoài tiếp khách thỉ mọi người đều sáng mắt lên, không hẹn mà đồng thốt ra một câu tận đáy lòng:
– Trời! Tân nương đẹp như tiên nữ!…
Thế nhưng mọi người đối với danh hiệu “Tiểu Thư Khỉ” này lòng đầy hiếu kỳ, rất muốn tim hiểu, tra vấn thân thế của “Tiểu Thư Khỉ” ra sao.
Té ra mẫu thân của “Tiểu Thư Khỉ” thời thiếu nữ từng là một hoa khôi nổi danh, số thanh niên phủ phục dưới chân cô nhiều vô kể. Các nhân sĩ gần đó nghe danh mến mộ, đều tìm tới mong được một lần chiêm ngưỡng dung nhan. Nhiều người tha thiết xin kết hôn. Thậm chí một thanh niên phú gia ở nước Malaysia gần bên cũng vượt biên giới tìm đến cầu thân. Nhưng giai nhân viện cớ không muốn lấy chồng ngoại quốc lìa xa cha mẹ, để khéo léo từ chối.
Không bao lâu, giai nhân kết hôn với người bạn trai vốn là thanh mai trúc mã ở cùng làng. Chàng thì tuấn tú đa tài, nàng thì diễm kiều mỹ lệ, thật là trời khéo tác hợp cho họ thành đôi. Nam nữ chung quanh ai cũng hâm mộ.
Chẳng mấy chốc tân nương mang thai, chồng nàng càng quan tâm thương yêu gấp bội, chăm sóc lo liệu đủ điều. Ba mẹ chồng thảy đều vui mừng, ai cũng ưu ái lo cho nàng.
Bình thường nàng rất dễ ăn, nhưng khi mang thai thì ngược lại, thức ngon mấy cũng không muốn nuốt.
Chồng nàng phải nghĩ trăm phương ngàn kế để ái thê thèm ăn.
Hôm nọ, chồng nàng vào chợ mua được cái chân khỉ, phối hợp với các vị thuốc bắc như hoài sơn, sâm, đương quy v.v…nấu lửa riu riu, rồi bất ngờ dọn lên và đã khơi gợi được ý muốn thèm ăn trong lòng nàng. Thấy vợ dùng rất nhiều, chồng nàng vô cùng mừng rỡ.
Từ đó mỗi khi gặp phiên chợ nhóm, chàng đều mua về một cái chân khỉ, hay miếng thịt khỉ để cho vợ dùng.
Hôm nọ, chồng nàng ra chợ, gặp thợ săn trói một con khỉ rao bán. Người chồng mừng quá, mua nó đem về, nghĩ nuôi tạm vài ngày rồi sẽ giết nó cho nàng ăn.
Hôm đó, cô vợ đã mang thai được 7 tháng, ngồi trên ghế dựa xem chồng giết khỉ.
Con khỉ đáng thương mẩy ngày ròng rã chỉ ăn toàn chuối và hoa quả, tính ra thịt mỡ trên thân nó chưa được nửa cân, phần còn lại thì làm thuốc bổ cho thai phụ.
Khỉ nhìn thấy người chồng cầm dao muốn giết mình, mắt nó tuôn lệ, chân nó quỳ xuống giống như người, hướng chủ nhân cầu xin tha mạng.
Nhưng người chồng quá yêu vợ này chẳng chút động lòng, không khởi chút từ tâm, giương dao lên toan mổ tim nó. Trong giây phút bên bờ tử vong, con khỉ nhanh nhẹn đưa tay phải chụp cán dao, tay trái nắm chặt lưỡi dao, dùng toàn lực chống đỡ cái chết, nhất quyết không buông tay. Người chồng cố sức nhưng đâm không được, ông nghĩ thu dao về rồi đâm tiếp, chính trong khoảng ông rút dao về, do bốn ngón tay con khỉ nắm quá chặt nên đã bị đứt lìa hai phần ngón, bốn ngón chỉ còn lại bốn lóng cuối (tính từ khớp xương trở vào). Thai phụ thấy máu tuôn như suối, ác tâm tiêu tan, không ngừng kêu chồng dừng tay: – Đừng giết nó! Đừng giết nữa! Mau đem khỉ thả đi!
Con khỉ nhờ không ngừng tranh đấu, từ quỷ môn quan giành lại mạng sống trở về. Nó ráng chịu đau đớn, đoạt cửa mà chạy, trước khi ra khỏi cổng, nó còn quay đầu nhìn về hai vợ chồng, ánh mắt đầy oán hận, rồi nó biến đi, biệt tăm biệt tích.
Từ đó trở đi, cô vợ mỗi khi nghe mùi thịt thỉ phát nôn, chỉ ăn toàn rau đậu hũ. Người nhà lo nàng không đủ chất bổ, lén bỏ nước thịt vào, nhưng nàng vừa nếm là đã nôn thốc nôn tháo.
Đến kỳ lâm bồn, nàng sinh một bé gái, ngũ quan trông rất đoan chánh, chỉ là phát hiện tay tả của bé chỉ có một ngón cái và bốn đốt cuối cùa bốn ngón tay, hình dạng giống như bị dao bén chặt đứt vậy. Cha mẹ và người thân nhìn thấy, đều thở dài, luôn mồm nói: – Lạ quá!
Thái Lan theo Phật giáo, tin sâu nhân quả, mọi người không hẹn mà đồng nói: – Đây là nhân quả báo ứng, do người chồng chặt đứt bốn ngón tay con khỉ mà ra.
Hôm nay, tân nương “Tiểu Thư Khỉ mặc áo cưới trắng, tay mang găng tay trắng, dịu dàng xinh đẹp cứ như tiên nữ hạ phàm.
Thế nhưng đâu ai biết trong găng tay đó không còn bốn ngón tay nhỏ dài thon, mà chỉ còn bốn đốt còn thừa lại như từng bị chặt, đó là nguyên nhân của biệt danh “Tiểu Thư Khỉ”, thành là câu chuyện đồn vang đương thời.
| mục lục |
11. TRỘM CÔNG GIẢM LIỆU
Hiện tại trong giới kiến trúc có ba câu danh ngôn:
Chỉ trộm công không giảm liệu: – chờ sập!
Chỉ giảm liệu không trộm công: – sẽ sập!
Đã trộm công, lại giảm liệu: – chắc chắn sập!
Nói giản lược là: “trộm công giảm liệu” thì sớm muộn gì cũng sập!
Vào năm 1971, thành phổ Đài Nam cùa Đài Loan có một nhà kinh doanh kiến trúc nổi danh tên Trương Sĩ Lương, ông không học qua sách, nhưng phòng ốc dựng xây hết sức kiến cố. Tuyệt không có chuyện trộm công giảm liệu, ông luôn bảo đảm uy tín danh dự, cho nên bất kể là kiến trúc dân gian hay thuộc chính phù, ai cũng muốn mời ông thầu xây.
Trương Sĩ Lương có hai con trai, đứa đầu tên là Trương Kim Sùng, là kỹ sư thiết kế kiến trúc. Còn đứa út tên là Trương Tất Khoan, kế thừa sự nghiệp phụ thân.
Lúc đó chính phủ muốn xây ở thôn quê một chung cư, công trình tổn phí rất lớn, các cổ đông trong hai thế lực hắc bạch tranh nhau giành thầu xây công trình. Do Trương Sĩ Lương có uy tín tốt, nên quan viên chính phủ ở cố hương đều tiến cử ông. Mời ông phụ trách kiến trúc.
Lúc đó chính phủ huyện có vị quan tên là Chiêm Tựu Thành, thuộc loại khổ học xuất thân, nhờ thành tích ưu tú mà thi đậu công vụ viên. Chỉ đáng tiếc là y không tự trọng, không biết giữ thân trong sạch. Tuổi cỏn nhỏ mà đã sớm học các thói xấu ác dối lừa, ăn hối lộ, vu oan hại người, giỏi nói suông nhưng làm tồi v.v…
Khi y biết công tử trưởng Trương Kim Sùng ký hợp đồng thiết kế hành nghề rồi, bèn nửa đêm lẻn vào thăm Trương Kim Sùng, đồng thời đem theo mấy vị dân biểu và anh em xã hội đen, nói dối rằng công trình này do nhiều người lợi dụng quyền lực và chưởng lực mà giành được, như nay ông Sùng đã thuận lợi ký được hợp đồng, thì phải chia cho họ một chén cơm, đây gọi lả “phí giới thiệu”.
Kim Sùng thấy nhóm ông Thành khí thế hung dữ, sợ sinh mạng bị uy hiếp, đành phải thỏa hiệp đáp ứng.
Tiếp đến ông Thành dẫn nhiều người đến tìm quản lý công trình là công tử út Trương Tất Khoan, ngoài việc yêu cầu Tất Khoan nộp “phí bảo đảm” tên Thành còn đòi quyền khoán bao, chỉ định cho doanh nghiệp kiến trúc, nếu không sẽ gây bất lợi.
Nguyên là công trình này lợi nhuận không nhiều, lại trải qua lớp lớp người dọa dẫm bắt chẹt, Tất Khoan bị họ ép hợp tác khổ không thể nói, đành bấm bụng để Tựu Thành nắm quyền, thế là Tựu Thành tha hồ thao túng việc trộm công giảm liệu(cắt giảm nguyên vật liệu), y khéo léo mua chuộc các quan viên giám định, lấy được giấy phép dễ dàng.
Tựu Thành cho rằng thủ pháp của y chu đáo kín như bưng, ắt là khó ai dò ra dấu vết.
Nhưng người tính không bằng trời tính. Năm sau khi chung cư xây hoàn tất. Đài Nam phát sinh thủy tai, phong tai nghiêm trọng, khi thủy tai qua rồi, chung cư chịu không nổi bão to gió lớn, trong một chiều, ngôi cao ốc bất ngờ đổ sập, gạch ngói bay tứ hướng.
Và màn thất bại này xảy ra đúng vào lúc các quan viên cao cấp đi tuần tra khảo sát tình hình thiên tai, do vậy họ đích thân chứng kiến hết, liền ra lệnh cấp dưới phải điều tra.
Chiêm Tựu Thành gian trá liền đổ hết trách nhiệm lên đầu Trương Kim Sùng, Trương Tất Khoan. Trương Kim Sùng khôn ngoan, biết khó trốn trách nhiệm liền lén cầm tiền đưa cho vị dân biểu trung ương nhờ “xử lý công bằng” và được an nhiên vô sự.
Riêng Tất Khoan trung hậu không biết hối lộ, nên bị phán ngồi nhà giam bốn năm rưỡi. Tin tức này truyền đến tai Trương Sĩ Lương đang nằm trên giường bệnh, ông thấy danh dự cả đời mình gìn giữ bị hủy hết trong một sớm, một chiều, nhất thời khó thể chấp nhận bèn tự sát.
Trương Kim Sùng biết Tựu Thành tính rất giảo hoạt và mưu mô nên không dám hủy hợp tác.
Em họ Tựu Thành là Chiêm Mộc Căn, cũng làm kinh doanh kiến trúc. Hễ Tựu Thành tiếp được công trình thì giao cho Chiêm Mộc Căn xây, sau đó y ung dung đòi nộp nhiều tiền hoa hồng. Mà các công trình Mộc Căn nhận được đều không có lợi nhiều, lại phải nộp phí quá cao nên lòng rất bất mãn. Kim Sùng hiểu được, bèn hẹn gặp riêng Mộc Căn đề nghị hợp tác làm ăn. Kim Sùng nhận công trình xong thì giao cho Mộc Căn xây. Lợi ích chia đều, không hề đòi phí “hoa hồng hoa cúc” gì.. Mộc Căn nghe, thích lắm, vui vẻ hợp tác.
Tin này truyền đến tai Chiêm Tựu Thành, y thập phần tức giận, cảm thấy Kim Sùng và Mộc Căn dám vong ân bội nghĩa với mình, nên ngay tối đó y dẫn theo 6 tên xã hội đen đến nhà Kim Sùng định hỏi tội và dạy cho ông ta một bài học. Nào ngờ ngay khi đó cảnh vệ đã mai phục sẵn và tóm gọn hết đám gian. Kết quả, Tựu Thành nổi danh cáo già trừ việc bị cách chức ra, pháp viện còn phán tội danh: “đốc xúi giết người chưa thành”, tuyên phạt y một năm rưỡi tù giam.
Khi Tựu Thành mãn hạn tù được thả rồi, thi y hợp cùng các thế lực đen mở một công ty kiến trúc, đấu thầu nhận công trình rồi thì giao cho bên xây dựng lo và kiếm lời từ trong đây. Do y điều khiển vô số công trình, rất nhiều việc không đạt mà phát sinh kiện cáo. Mỗi lần có sự cố phát sinh, sở cảnh sát thề sẽ điều tra tới cùng, nhưng sau khi Tựu Thành giao lưu thầm lén với họ xong, thì kết quả cứ mơ mờ ào ảo và được thông qua.
Mặc dù Tựu Thành nhiều lần thoát khỏi lưới pháp luật, nhưng trốn không nỗi báo ứng của trời.
Hôm đó là ngày mừng sinh nhật 65 của ông, hai con trai ông vì cha mẹ nghỉ hưu an hưởng tuổi già, đã đặc biệt hùn vốn cho xây một ngôi biệt thự nguy nga, để làm quà mừng sinh nhật phụ thân. Hôm sinh nhật là ngày ông hoan hỉ dọn vào nhà mới. Nhưng không ai ngờ, ngay tối đó hạ tầng ngôi biệt thự tráng lệ bỗng phát sinh sụt lún rồi sụp đổ khiến vợ chồng ông Thành, con trai trưởng và các phe phái từng hợp tác thầu xây cồng trình gian, vô phương đào thoát, đồng bị chôn sống và chết dưới đống gạch vụn.
Sau đó cảnh sát điều tra mới biết, ngôi kiến trúc mừng sinh nhật do bị bòn rút vật liệu nghiêm trọng nên mới đổ sập. Điều khiến người ngạc nhiên nhất là, nhóm thợ xây ngôi nhà đó thuộc công ty của con trai trưởng ông Thành.
Do ông Thành và các phe phái hợp tác thầu công trình chuyên bòn rút vật liệu, và “tuyệt chiêu” này đã được ông truyền cho con trai. Con ông lại đem “bí kíp công phu” này truyền cho các thương nhân hợp tác xây dựng. Nên khi họ thọ giáo đầy đủ rồi thì luôn xử dụng “tuyệt chiêu” này đề báo đáp cha con ông. Đây gọi là báo ứng “trồng dưa được dưa trồng đậu được đậu”.
Trong xã hội bây giờ, bao nhiêu quan viên vá công ty xây dựng vì tiền tài thế lực, danh vọng mà bán rẻ lương tâm. Hãy xem Đài Loan năm 92 bị đại địa chấn, Tứ Xuyên, vấn Xuyên bị đại địa chấn làm sụp đổ biết bao tòa nhà (bị bòn rút vật liệu) và đã đè chết vô số sinh mạng bất hạnh. Đây chính là quan quyền cấu kết với thương nhân hợp tác làm gian dối cẩu thả rồi tạo nên thảm kịch máu loang đầy đất (từ việc xây dựng thiếu lương tâm).
Hi vọng xem xong câu chuyện có thật này, các vị sẽ giữ lòng hướng thiện. Nếu dùng thủ đoạn đê hèn để có được giàu sang, thì hại người vẫn là hại mình, khó thoát khỏi báo ứng rủi ro. Bởi vì đồng tiền bất nghĩa dù do chính tay mình hay con cháu tạo ra, thảy đều vô phương hưởng dụng.
| mục lục |
12. NGƯỜI CHỒNG TÀI HOA
Chiêm Nguyệt Quyên là người Đài Loan quê ở Gia Nghĩa, tháng 7 năm 1979 nàng dẫn con gái Tiểu Man 3 tuổi qua thành phố Hoành tân (Yokohama) Nhật Bản, rồi uống thuốc độc tự sát trong khách sạn.
Khi cảnh sát đến hiện trường, phát hiện dấu vân tay viết chữ “HẬN” bằng máu. Lại thấy hai mẹ con đều mở to mắt, và máu lệ vẫn còn đang chảy, chứng tỏ họ chết rất đau khổ, không cam tâm. Ban cảnh sát hình sự Nhật Bản vốn giàu kinh nghiệm, thầm biết vụ tự sát này có nhiều uẩn khúc, nội tinh không đơn giản.
Cảnh sát Nhật Bản rất quan tâm đến vụ án này, lần theo lý lịch hộ chiếu người chết, họ đến Đài Loan trú một ngày tại Cơ quan Hiệp Trợ và nhanh chóng tìm ra cha mẹ nạn nhân. Phụ thân Nguyệt Quyên là ông JỄfpp Chiêm Phong Bình làm nghề nông, mẹ là Du Kiều Nguyệt (nội trợ)… Quyên là con thứ ba trong nhà, trên có anh và chị, dưới có hai em trai. Quyên hòi nhỏ học rất giỏi nên đã thi đậu vào Đại Học Sư Phạm Đài Bắc trứ danh, người quanh đấy đều ngưỡng mộ, ngợi khen, nàng là niềm tự hào của gia đình họ Chiêm.
Quyên học đại học đến năm thứ tư, nhân dịp tham gia hoạt động chuyên đội, nàng quen anh Uông Huyền Nhân, người Đài Đại, bề ngoài không có gi xuất chúng, nhưng cỏ lắm tài, tính anh khéo hài hước pha trò chọc người cười vui, nói năng lưu loát, lại khéo nhả ngọc phun châu. Nhờ vậy mà lọt vào mắt xanh của Quyên.
Qua nửa năm giao du, cảm tình ngày một nòng hậu, họ dự định tốt nghiệp xong thi sẽ kết hôn. Trong mắt các bạn, hai người là một cặp trời sanh, “trai tài gái sắc”, khiến người nhìn vào phải ước ao.
Nhưng thế sự khó lường, năm đó anh Nhân vừa tốt nghiệp thì tham gia hoạt động leo núi. Trên đường trở về bất ngờ anh bị tai nạn xe. Trong thời gian trị dưỡng, hằng ngày hễ Quyên dạy học xong thì đến bịnh viện chăm sóc anh. Do vậy mà nàng quen biết bác sĩ thực tập Vu Luân Thuận. Thuận trông có vẻ là một người tài hoa mẫu mực, tính trầm lặng ít nói. Lúc đó Thuận đã âm thầm thương yêu Quyên.
Sau khi Nhân tạ thế, Thuận nhiệt tình theo đuổi Quyên, những khi không trực ở bịnh viện, thì anh đến trường Quyên dạy, đón nàng về nhà, đích thân xuống bếp nấu ăn chiêu đãi.
Mỗi lần Quyên về Gia Nghĩa thăm cha mẹ, Thuận đều ra tận ga xe lửa đưa đón nàng.
Thuận kiên trì theo đuổi Quyên suốt một năm rưỡi, cuối cùng nàng cũng bị tình của anh làm cảm động và chấp nhận bước vào lễ đường.
Sau khi kết hôn, Quyên mới biết trước đây Thuận nộp đơn xin du học bên Nhật Bản, đã được chấp nhận, trường thông báo nội trong một tháng Thuận phải đến đăng ký. Vì mới kểt hôn nên Thuận muốn từ bỏ cơ hội sang Nhật Bản để được ở bên vợ. Nhưng Quyên cho rằng được xuất ngoại du học là dịp may hiếm có, còn vấn đề học phí, nàng sẽ nghĩ cách lo liệu.
Thuận cảm thấy vợ nói có lý, bèn quyết định sang Nhật du học, lòng tràn đầy xúc động và cảm kích.
Trước đêm chia biệt, Thuận ba lần hướng vợ hứa hẹn bảo đảm, rằng một khi tốt nghiệp tiến sĩ xong chàng sẽ quay về Đài Loan ngay, sẽ mở phòng mạch ở Đài Bắc cùng vợ làm việc vả sống hạnh phúc bên nhau
Lời của chảng làm Quyên cảm động không thôi. Nàng tự hào vì lòng yêu của chồng dành cho, cảm thấy vui sướng vỉ mình đã (ỷỆMA) lấy đúng người.
Kể từ đó, mọi gánh nặng trút xuống đầu Quyên, nàng phải vất vả lo từ phí học, phí sinh hoạt đắt đò cho chồng ờ Nhật Bản.
Một năm sau đó, tiền Quyên dành dụm tích lũy đêu được gởi cho chồng tiêu dùng. Ngoài dạy ở trường, nàng còn lãnh dạy kèm ở nhà thỉnh thoảng hướng cha mẹ xin tiền, nhưng vẫn vô phương chi đủ phí cho chồng xài.
Lúc này con của Quyên đã một tuổi, gánh nặng càng tăng, tiền nuôi đứa nhỏ, tiền nuôi chồng ăn học, tất cả dồn ép nàng bận rộn đến không kịp thở.
Mùa đông năm đó, để giải quyết kinh tế túng bấn, Quyên bát đắc dĩ phải đến quán rượu làm việc, nhận công tác tiếp khách “bán cười không bán thân” trong thời gian ba năm.
Nhờ vậy mà nàng giải quyết được phí tiêu xài cho chồng ở Nhật Bản, nhưng do phải trường kỳ uống rượu thức khuya, dạy học vất vả, nên Quyên mắc bịnh lao nghiêm trọng. Bác sĩ tuyên bố kể từ đây nàng không thể sinh con được nữa, điều này là đả kích cực lớn đối với nàng. Thế nhưng Quyên luôn tự tin: “Tất cả mình đã hi sinh vì chồng, anh nhất định sẽ thông cảm, yêu nàng hơn”…
Lúc Thuận sắp lấy bằng tiến sĩ, anh có về Đài Loan tham dự lễ tang bà nội. Khi biết Quyên đến quán rượu lảm việc bị bịnh phổi thì Thuận chẳng những không tức giận, không truy cứu, ngược lại còn làm như không có chuyện gỉ. Thuận luôn binh thản và tỏ ra rát quý vợ, khiến Quyên càng thêm tin tưởng vào tình yêu của chồng.
Nhưng Quyên không ngờ được rằng, trước khi về Đài Loan, Thuận đã lén lút kết hôn cùng con gái của giáo sư trường mình và đã mờ một y viện nhỏ tại ngoại thành Đông Kinh, tự mình làm Viện trưởng, chính giáo sư và con gái ông đã xuất tiền đầu tư cho Thuận nên họ nghiễm nhiên là Đổng sự.
Nhưng không bao lâu thi tin này cũng truyền đến tai Quyên. Mới đầu nàng không tin, còn cho là bịa đặt, song thâm tâm vẫn bán tín bán nghị. Thế lả nàng quyết định, đợi thân thể khỏe mạnh hơn sẽ dẫn con gái Tiểu Man qua Nhật một lần cho rõ thực hư.
Thuận nhận được tin vợ, biết là sự tỉnh đã đến hồi nghiêm trọng, để việc làm tồi tệ của mình không bị vạch trần khiến chàng phải xấu hổ, Thuận âm thầm dựng lên một âm mưu hiềm độc.
Đầu tiên, chàng lấy lý do bận rộn, phái người đến phi trường đón hai mẹ con Quyên về khách sạn trước và hẹn tối đó sẽ đến gặp.
Sau đó, chàng thuê người đóng giả phục vụ viên, bảo họ mười lăm phút trước khi chàng đến, hãy lẻn vào phòng dùng thủ đoạn thô bạo toan cưỡng hiếp Quyên, ngay lúc đó chàng sẽ xuất hiện.
Tên hại mướn kia làm y theo kế sách của Thuận, trước mặt chàng hắn nói dối minh là gian phu của Quyên, còn Quyên thì quá thực thà, nàng giống như người câm không biết nói lời nào để minh oan cho mình, Thuận liền đanh thép buộc tội, dõng dạc đề xuất li hôn với Quyên.
Trong khách sạn, sau khi vở kịch thành công mỹ mãn, Thuận lập tức trở mặt phủ nhận nghĩa tình phu thẻ, phủi luôn bốn năm Quyên gian khổ làm lụng chu cấp tiền cho chàng ăn học, tất cả ân tỉnh sâu nặng, tất cả hi sinh của quyên, giây phút này đều hóa thành vô nghĩa.
Quyên nhận ra hôn nhân giữa hai người đã vô phương cứu vãn, nàng nghẹn ngào bi phẫn kí tên vào đơn li hôn. Trước lúc li hôn tại Đông Kinh, vì muốn cho Tiểu Man gặp lại cha một lần, thông qua hồ sơ và tư liệu nơi trường học, Quyên tìm đến y viện, và nàng phát hiện ra sự thật phũ phàng: Thuận đã sớm kết hôn vui duyên mới và vụ án cường bạo ở khách sạn là bẫy rập của chàng làm ra để hại nàng. Nàng cảm thấy như đất sụp dưới chân minh, trong cơn phẫn nộ tột độ nàng xông thẳng đến nhà Viện trưởng Thuận để hỏi cho minh bạch, nhưng đến đó nàng chỉ chuốc thêm nhục nhã chất chồng, Thuận đổ hết mọi điều xấu lên nàng, còn kêu bảo vệ tống cổ nàng ra. Quyên thân đơn thế cô, chẳng có được cơ hội nào để đối chất. Do thân tâm đều bị đã kích nặng, nàng dẫn con qua thành phố Hoành Tân thăm dì là Hoa kiều đang ngụ ở Nhật xong thì quay về khách sạn và uống thuốc độc tự sát cùng Tiểu Mẫn.
Mặc dù cảnh sát Nhật Bản đã điều tra ra vụ án, nhưng mẹ con Quyên đã chết, họ không bằng không chứng chẳng thể làm gì được Thuận.
Phần Thuận, khi hay tin mẹ con Quyên tự tử, chàng như trút được gánh nặng, thầm nghĩ kể từ đây đã có thể tha hồ kê cao gối mà ngủ, tha hồ thoải mái không còn phiền lo. Thế là chàng tiếp tục lợi dụng quan hệ và uy tín của nhạc phụ, truy cầu danh lợi tại Nhật Bản.
Sau đó, Thuận được mời đến trường diễn giảng, đề tài là “Bí quyết sổng hạnh phúc giữa vợ chồng”.
Thuận đang cao hứng nói thao thao, mới giảng được nửa buổi, thì cái micro vô duyên vô cớ đột nhiên bốc khói, ròi nổ tung. Tại giảng đường, Thuận không chút đề phòng nên bị vỡ đầu chảy máu, mù hai mắt. Do đầu bị trọng thương nên chàng biến thành ngu si ngớ ngẩn, hiện vẫn còn đang trị liệu và điều dưỡng tại bịnh viện Nhật Bản.
Cái micro vì sao có thể phát nổ? Nạn nhân vì sao lại là Thuận, là người chồng bạc tình phụ nghĩa, nhẫn tâm cư xử ác độc, ruồng bỏ người vợ (vừa là người ân) của mình? Và đề giảng vì sao lại liên quan đến “Tình phu thê”? Rốt cuộc thì đây là trùng hợp, là thiên ý trừng phạt hay báo ứng?
Mọi người bàn tán xôn xao.
Theo người viết thì Thuận trốn được quốc pháp, nhân luật nhưng không trốn được luật nhân quả báo ứng.
Thông qua câu chuyện có thật này, xin khuyên những cặp phu thê trong thế gian, chớ nên biến quan hệ vợ chồng thành việc mưu cầu lợi riêng. Hôn nhân như thế sẽ không bao giờ hạnh phúc. Tiến sĩ (kiêm bác sĩ) Thuận vì công danh lợi lộc trước mắt mà bước vào nẻo sai, cuối cùng đánh mất cả lương tâm cho nên phải trả giá băng hậu quả thê thảm như mọi người đã thấy. Đây gọi là “ác nhân gặp ác báo”.
| mục lục |
13. PHÁP QUAN KỲ ÁN
Một buổi sáng tháng 7 năm 1978, tại một cao nguyên huyện Đài Bắc, hai vợ chồng Thái A Vượng và người bạn thân Lâm Thuận Xa, cùng quảy gánh lên núi hái trái vải. Khi đi ngang qua một hang động bỏ hoang lâu năm, thì bỗng thấy từ trong chạy ra ba con chó, mồm chúng ngậm nội tạng người đang nhỏ máu long tong. Anh Xa hiếu kỳ rón rén bước vào động xem sự thể thể nào, nhưng cảnh tượng đáng sợ trước mắt khiến anh kinh hoàng đứng chết sững: một tiên sinh hơn sáu mươi tuổi đang nằm trên vũng máu; ngực, bụng bị xé rách, nội tạng bị ba con chó hồi nãy ngoạm chạy ra ngoài. Càng khùng hơn nữa là ngồi bên cạnh xác chết là một cô gái điên đầu tóc bù xù, đang cầm khúc ruột của nạn nhân quấn quanh cổ chơi đùa.
Anh Xa sợ đến lông tóc dựng đứng, vội quay đầu chạy ra khỏi động, lập tức cùng vợ chồng anh Vượng đi báo án.
Cảnh sát được tin, vội đến hiện trường, nhìn thấy nạn nhân ngoài việc bụng và ngực bị moi khoét trống rỗng… thì các chỗ khác không bị thương chi. Điều khó hiểu là cô gái điên bên cạnh vì sao không bị tổn hại gì? Tại sao mấy con chó chỉ cắn lão già mả không cắn cô?…
Bao nhiêu nghi vấn nổi lên, tính chất vụ án kỳ bí này như thách thức khả năng chuyên môn của những người trong ban phá án.
Nhờ sự hợp tác giúp đỡ của dân chúng, cảnh sát đã nhanh chóng điều tra ra tên người chết là Liêu Ký Đức, còn cô gái điên tên Liêu Tú Tú, là con gái ông, hiện bị tâm thần nặng, họ ngụ tại trấn Thọ Lâm gần đây.
Căn cứ theo hồ sơ thì năm 1949 ông Đức theo chính phủ Quốc Dân tới Đài Loan, làm thẩm phán 28 năm. ông có kiến thức luật phong phú, nhưng tâm bất chánh, tính tham tài háo sắc cực độ, là vị quan tham nhũng tiêu biểu, từ một năm ừước ống đă nghỉ làm về hưu, ẩn cư tại trấn Thọ Lâm. Xin kể sơ vài việc của ông như vầy:
Vào năm 1953, một vị quan thuộc ngành Hải quan Đài Bắc tên Ngưu Đồng Đoan, do tham ô mà bị tòa sơ thẩm tuyên án mười năm tù. Trong lần tái xử án thì do thầm phán cũ đã chuyền đi, ông Đức được bổ đến nhậm chức xử lý.
Tại pháp đình, thấy tình nhân của ông Đoan là Phấn Châu cũng đến dự thính, do nàng rất xinh đẹp mỹ lệ, nên thẩm phán Đức cứ nhìn chòng chọc không rời. Sau đó còn cố ý ra oai quát nạt ông Đoan, hăm rằng án tù 10 năm là quá nhẹ, nếu tìm ra tội chứng mới ông sẽ phán ít nhất 15 năm!
Ông Đoan nghe vậy quá sợ, chắp tay van cầu phán quan bao dung giảm án cho. Nhưng ông Đức không chấp nhận.
Mấy ngày sau ông Đức chủ động gọi điện hẹn gặp riêng luật sư biện hộ cho ông Đoan và nói úp úp mở mở rằng án của ông Đoan có thể nặng mà có thể nhẹ, nếu như người đẹp Phấn Châu chịu ra mặt cầu xin thì may ra sẽ chuyển đổi được…
Nghe thế luật sư đã biết tỏng bụng dạ ông Đức, bèn hứa sẽ thuyết phục ông Đoan đồng ý cho Phấn Châu đến hầu hạ ông Đức một tuần. Nhưng xong việc, ông Đức vẫn không hài lòng, còn bắt người nhà ông Đoan phải nộp một khoản tiền kếch xù. Cuối cùng, khi tài sắc đã vơ vét ưng ý ròi, ông Đức mới tuyên bố giữa tòa là: tội chứng không đủ và tuyên phán ông Đoan bị sáu tháng tù, nhưng cho phép nộp tiền phạt thay cho ngồi tù. Thực tế là xem như vô tội, ông Đức đã tự tiện phóng thích phạm nhân, một tay che cả bầu trời!
Ông Đức một mình đến Đài Loan, làm thẩm phán chỉ mới mấy năm, nhờ tham ô mà giàu to. Qua bạn bè giới thiệu, ông cưới Thúy Đào, một cô gái con nhà nông, nhỏ hơn ông 13 tuổi. Cô này vừa hiền, vừa kiều diễm. Năm sau thỉ sinh hạ bé Tú Tú.
Đáng tiếc là lúc Tú Tú hai tuổi, Thúy Đào bị ung thư ngực qua đời. ồng Đức do “bận rộn công vụ” nên đổi với con thiếu sự chăm nom. Vi Tú Tú trong một lần cảm mạo phát sốt quá cao, do không kịp đi bịnh viện mả biến thánh ngớ ngẩn trầm trọng.
Đối với cái chết của vợ và con bị ngây ngô, là hai đả kích rất nặng. Nhưng ông Đức chẳng mày may hiểu biết để thức tĩnh rằng đây là quả bảo do mình thiếu đức. Ngược lại ông càng ra sức lợi dụng chức quyền để tranh danh đoạt lợi, vơ vét cho đầy túi riêng. Còn lớn tiếng khoe khoang rằng với chức quyền và danh vị cũng như tài trí và mưu lược của ông, thì sẽ có vô số mỹ nữ tìm đến nộp mạng và vàng bạc sẽ tự động đồ vào túi ông!…
Vì thế trong suốt 28 năm cầm quyền, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm, ông toàn làm những điều thương luân hại lý. Giở đủ thủ đoạn hạch sách, bắt chẹt và tạo ra vô số án oan, án mạng.
Có nhiều người vì ông ăn đút lót tuyên án oan, uất ức sinh bịnh chết trong tù, vợ bất bình tự sát. Biết bao gia đình nhà tan cửa nát vì ông có quyền cao chức trọng mà không có lương tâm.
Trong thời gian làm thẩm phán, ông đã hại chết biết bao sinh mạng, hủy hoại nhiều gia đinh. Tội ác dẫy đầy…
Năm 1977, ông Đức cuối cùng cũng thoái hưu và cùng một quả phụ ẩn cư tại cao nguyên thuộc trấn Thọ Lâm.
Một sáng nọ ông dẫn con gái đi dự lễ ngang qua cửa động thì Tú Tú đòi vào nghỉ một chút, ông chiu ý con và khi ông bước vào động thỉ đột nhiên có ba con chó xông đến, khí thế dữ dằn nhắm thẳng vào ông nhe răng bén, giương móng vuốt hung ác cào ngực, xé bụng ông. Chưa đầy mấy phút chúng đã lôi hết ngũ tạng lục phủ ông ra và ông Đức lia đời trong thống khổ tột độ.
Ba con chó đao phủ” thực hành án tử cho ông Đức rất mau. Khi họàn thành sứ mệnh rồi, thì chúng chạy đi như lằn chớp, bién mất tăm không để lại dấu vết. Chỉ còn Tú Tú ngồi bên cạnh mặt mày cực kỳ vui vẻ, thản nhiên cầm ruột của cha quấn quanh cổ chơi, bộ dạng rất đắc ỷ như thể vừa làm được việc gi tốt lắm vậy.
Chức vị thẩm phán là chấp pháp công minh, thi hành quốc luật, không thiên vị riêng tư! Nhưng ồng Đức bị sắc tài làm cho mê muội, toàn lạm dụng chức quyền để thu lợi cho mình, phụ lòng quốc gia và nhân dân ký thác.
Báo ứng hiện tiền của ông là bài học cảnh cáo thé nhân, cho dù có tránh được pháp luật trừng trị, thì cũng chẳng thể nào tránh được báo ứng nhân quả, nên nói: “Thiên lý chí công, trốn một lúc nhưng không trốn được cả đời”.
| mục lục |
14. NHỮNG KẺ BUÔN NGƯỜI
Năm 1981 Sau khi Trung Quốc giải phóng, trăm nghề hưng thịnh, thôn Tả Hậu tỉnh Liêu Ninh hẻo lánh chuyền sống bằng nghề trồng bán dược liệu. Cho nên có người gọi vùng này là làng thuốc, nỗi danh toàn quốc.
Các tiệm buôn thuốc đông y nơi thành phố lớn đều đến đây mua dược liệu. Có cô gái tên Hàn Hà, cha mẹ đều sống bằng nghề trổng thuốc.
Hàn hà tuy mới 17 tuổi, nhưng tính thẳng thắn. Thấy các lái buôn đến thôn mua thuốc thường hay lường gạt ép giá nên cồ tự đứng ra kêu gọi dân làng đoàn kết vỉ quyền lợi chung, cô đại diện toàn thôn cùng thương nghị với lái buôn, đòi mức giá hợp lý.
Điều này giúp nông dân kiếm được nhiều tiền, nên dân làng đều tán thán ủng hộ cô.
Đỗ Nghiêu là một đại thương gia đến từ Thượng Hải, phát hiện tài năng của Hàn Hà, thầm nghĩ nếu như cô được huấn luyện, trong tương lai nhất định có thể kiếm được nhiều tiền cho ông.
Đỗ Nghiêu bèn hứa sẽ cho Hàn Hà làm chức lớn và trả lương cao, mời cô lên Thượng Hải. Hàn Hà vì gánh nặng phải lo cho song thân tuổi cao và người anh tàn phế đôi chân, nên chịu nhận lời của Đỗ Nghiêu.
Đài Loan rất thiếu Trung dược, nên các thương nhân thường đổ xô qua Đại Lục thu mua thuốc với giá rẻ. Có Trần Đồng Tân mở tiệm thuốc ở Đài Loan từ năm 1988, mỗi năm đều qua Thượng Hải mua dược liệu, do vậy mà quen với Đỗ Nghiêu và Hàn Hà. Đòng Tân có người em trai tên Hựu Tân mở công ty môi giới hôn nhân. Chuyên giới thiệu các cô gái từ Đại Lục và Đông Nam Á lấy chồng Đài Loan. Hựu Tân lợi dụng mối giao tế của anh mình, thường dẫn các ông chưa vợ qua Đại Lục tìm đối tượng.
Tháng 11 năm 1981, công ty Hựu Tân lại có hai người khách: La Bang và Vương Đồng Nghĩa, họ tuổi ngoài 30, trông có vẻ là kẻ tài ba mẫu mực, cả hai nói chuyên rất hào sảng, thu hút. Họ ngỏ ý muốn tim vợ ở Đại Lục và hứa sẽ trả phí cao, Hựu Tân luôn mồm nói sẽ tận lực đáp ứng.
Ba tháng sau Hựu Tân dẫn Bang và Nghĩa đến Thượng Hải, ngụ tại biệt thự của Đỗ Nghiêu.
Tối đó Đỗ Nghiêu đãi tiệc cho ba vị khách, Hàn Hà và nữ nhân viên phục vụ Vương Hiểu Hoan cũng có mặt ở đó.
Trong buổi tiệc, La Bang nói mình là Tổng Giám Đốc công ty điện tử, có ba công ty chi nhánh và hơn 200 nhân viên.
Do hằng ngày bận rộn làm việc, nên bị vợ ruồng bỏ. Bây giờ y đang cần tìm môt hiền thê thông minh, dịu dàng có thể giúp y phát triển sự nghiệp.
Tiếp đó thì Nghĩa giới thiệu minh là chủ công ty kiến trúc, hằng ngày bận rộn đi khắp ba vùng bắc, trung, nam Đài Loan để xử lý công trình, vi không có thời gian bầu bạn với bà xã nên bị ly hôn. Hiện muốn tìm một phụ nữ hiền lành biết cảm thông làm vợ.
Bang vả nghĩa giới thiệu rôm rả về mình, cộng thêm Hựu Tân góp lời ca ngợi, khiến Đỗ Nghiêu nghe qua không ngớt gật đầu tán thưởng.
Hàn Hà lả thiếu nữ chưa chồng, nghe họ nói liền dệt mộng… “Hai vị đại gia có sự nghiệp lớn, tài mạo song toàn nảy – mới đúng là đối tượng hoàn hảo – mà nàng hằng mơ ước”. Hàn Hà thầm nghĩ gia cảnh mình nghèo, không học vấn, nếu như một trong hai người này không chê bỏ, thì nàng ưng ngay, nàng sẽ đổi đời, vừa cải thiện sinh hoạt túng bấn của nhà đình, mà bản thân cũng thành là phu nhân Tổng giám đốc được bao người kính mộ…
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, trong ánh nhìn Hàn Hà hiện đầy vẽ khát khao về ước muốn đổi đời, hai gã Bang và Nghĩa nhìn thấu hết… Hựu Tân còn phụ nói vào thêm, công thêm sự tán thưởng của Đỗ Nghiêu thì kết quả dễ dàng đạt thành. Vị trí đã định xong, Hàn Hà sẽ gả cho Vương Nghĩa, còn La Bang thì cưới Hiểu Hoan.
Trong lúc hai cô gái dệt đầy mộng đẹp về cuộc sống lứa đôi, thì Bang và Nghĩa lòng khấp khởi mừng thầm, vì họ mới vừa quăng lưới đã bắt ngay được mẻ cá.
Nhờ Hựu Tân nhiệt tình giúp đỡ, hai tân nương được đưa về Đài Loan. Vừa xuống phi trường thì Hàn Hà và Hiểu Hoan lập tức bị tập đoàn lưu manh “Người Rắn” chở đến khách sạn Đào Viên giam lõng và bị tịch thu hết hộ chiếu, lúc này Hàn Hà và Hiểu Hoan mới tỉnh mộng, biết là mình đã rơi vào tổ quỷ.
Hôm sau, Bang và Nghĩa cùng thủ lãnh “Người Rắn” là Thái Côn Lâm đến uy hiếp Hàn Hà, Hiểu Hoan. Họ nói nếu hai nàng không chịu tiếp khách mà đi báo cảnh sát, thì không những tính mạng bị nguy, mà người thân bên Đại Lục cũng sẽ bị hại. Để chứng minh họ không nói dối, tên Lâm đầu đảng còn chìa ra hình cha mẹ hai người, và mô tả cảnh nhà hai cô rõ mòn một.
Hàn Hà tự biết khó thoát tay quỷ, đành nén chịu, chờ thời cơ thoát thân. Còn Hieu Hoan thì khó mà tiếp nhận được sự thực tàn khốc này nên la hét khóc than, làm ầm náo đến chết đi sống lại. Tên Lâm thâm độc bèn nhốt Hiểu Hoan, cho thủ hạ cưỡng hiếp và đánh đập nàng. Hiểu hoan thân tâm đều bị giày vò tàn khốc, đành khuất phục tiếp khách, cho đến khi gặp cảnh sát truy quét tội phạm mới được trả về Đại Lục, nhưng lúc đó Hiểu Hoan đã nhiễm bịnh đẫn đến di chứng vô sinh, hiện còn đang trị liệu.
Phần Hàn Hà, tên Lâm không những bắt nàng liên tục tiếp khách mà còn dụ nàng hút ma túy và đánh bạc. Chỉ trong vòng một năm ngăn ngủi, cô gái trẻ trung xinh đẹp Hàn Hà đã biến thành da vàng gầy ốm. Cuối cùng thỉ suy sụp hay ngất qua kiểm tra bị mắc bệnh ung bướu. Một khi tên Lâm thấy Hàn Hà không còn giá trị lợi dụng nữa thì hắn chẳng đeo phiền vào làm gi, bèn cho tập đoàn buôn lậu đưa Hàn Hà trả về cố hương của nàng, đến nay sống chết không rõ.
Ngạn ngữ tây phương nói: “Người trường kỳ làm ác, trong tâm nhất định không an” ba tên Lâm, Bang, và Nghĩa, chuyên môn dụ dỗ gạt lường, ép các cô gái Đại Lục và Đông Nam Á đến Đài Loan bán dâm. Bọn hắn thu lợi rất nhiều, trải qua tháng ngày phú lạc, nhưng chúng vẫn luôn bị bất an. Vi đêm đêm nằm ngủ thường bị hình ảnh bi thảm của các thiếu nữ không ngưng xuất hiện ám chúng, kẻ bị hại đầu bù tóc rối hỉnh dạng như quỷ dữ cứ nghiến răng nguyền rủa chúng, mới đầu thi lâu lâu mới thấy một vài lần, sau đó thi đêm nào cũng thấy.
Vào tháng 7 năm 1995, ba tên côn đồ này suốt trong một tháng, đêm nào cũng mơ thấy ác mộng giống nhau. Chúng còn thấy một cô gái mắc bệnh cùi mặt mày hung ác, cười rất ghê rợn. Tiếng cười càng lúc càng khiến ba gã sợ hãi kinh hoàng, toàn thân xuất hạn mồ hôi. Hôm sau thân thể của họ đều cảm thấy khó chịu giống nhau, vỉ vậy họ cùng đi tim bà đồng nổi danh để giúp họ trục tà. Bà đồng đề nghị họ nên xuất ngoại du lịch, quay về sẽ không có việc gỉ.
Ba người cho là có lý nên bốn ngày sau thì bay sang Thái Lan du lịch và cho là ác mộng sẽ không quấy rầy. Nào ngờ đêm đầu tiên trên nước Thái Lan, họ vừa nhắm mắt thi yêu quỷ đã xuất hiện, còn quấy nhiễu dữ dằn hơn ở Đài Loan. Khiến tinh thần bọn họ càng bị khủng bố căng thẳng.
Một tuần sau La Bang tự nhiên phát điên, y được đưa về Đài Loan, hiện nay đang điều dưỡng tại bịnh viện tâm thần ở Chương Hóa.
Còn Lâm và Nghĩa sau đó càng thê thảm hơn, lúc ờ tại Thái Lan, họ không tiếp xúc bất kỳ ai, nhưng khi về Đài Loan rồi thì cả hai đều cảm thấy không khỏe, thân họ ngày càng gầy ốm, bệnh viện Đài Loan khám không tìm ra nguyên nhân. Họ phải bay sang Mỹ khám bịnh và phát hiệt mình mắc bịnh AIDS, (sida) Nửa năm sau họ bị bịnh giày vò, thân thể lở loét đau đớn tột cùng rồi chết tại Mỹ.
Người hành thiện tích đức, tâm luõn sung mãn hỉ duyệt. Người làm ác lương tâm ngày đêm sẽ bị trách phạt nghiêm trọng, sống không được an, thống khổ vạn phần hơn là chet.
Xin xem gương những người mưu lợi gạt ép các cô gái bán dâm như thế này, kết cuộc đều sẽ giống như ba người Lâm, Bang, Nghĩa. Khi sống tâm luôn bất an, lúc chết rất thống khổ.
-> đọc Trọn Bộ | Tập 1 | Tập 2 | Tập 3 | Tập 4 | Tập 5 | Tập 6 | Tập 7 |
–> Nghe đọc online trọn bộ này tại đây: Báo Ứng Hiện Đời – Video