Nguyễn Văn Liên với cuộc tìm mộ Liệt sĩ Bùi Văn Thịnh
Khi bật nắp quan tài, thấy quai đôi dép cao su đúc màu vàng xỉn đen nổi lên, thứ trưởng Bùi Văn Sướng òa lên nức nở. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là mộ cha rồi. Đôi dép kia, chính là người bạn đường của cha bao năm hoạt động cách mạng mà khi còn nhỏ anh thường thấy cha mang. Hành trình tìm kiếm mộ cha gian nan vất vả sau hơn 50 năm có được kết quả hôm nay là nhờ khả năng đặc biệt của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên…
Từ cuộc vượt ngục đêm ngày 03 tháng 2 năm 1945…
Ông Bùi Văn Thịnh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Gia Trấn, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, làm phu tại Lào Cai, Yên Bái để kiếm sống. Có chút học vấn nên khi được tuyên truyền vô sản hóa theo tôn chỉ của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, ông đã sớm giác ngộ cách mạng. Cuối năm 1928, trở về quê hương với tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, ông Thịnh tích cực liên lạc gây dựng cơ sở Đảng trong quần chúng. Sau nhiều lần qua lại thôn Thần Thiệu (Gia Viễn), thôn Đoan Vĩ (Hà Nam) và một số làng xã thuộc huyện Ý Yên – Nam Định (với lí do tìm công ăn việc làm, nhưng thực chất là dò tìm liên lạc cơ sở cách mạng), cuối cùng ông cũng gây dựng được một số cơ sở cách mạng, giác ngộ và kết nạp một số người vào tổ chức Đảng. Tháng 8-1930, chi bộ thôn Cung Quế được thành lập do đảng viên Bùi Văn Thịnh (tức Thơ Lanh) làm bí thư. Tháng 8-1931, ông bị mật thám Pháp bắt khi đang hoạt động ở Ninh Bình. Lúc đầu ông bị giam tại nhà tù Nam Định, sau đó đi đày ở Sơn La, nhưng địch liệt ông vào đối tượng tù nguy hiểm, có thể sẽ bỏ trốn, nên chúng lại đưa ông về giam tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội).
(Chân dung ông Bùi Văn Thịnh – tức Thơ Lanh
Ảnh do cố Thứ trưởng Bộ Công an Trần Quyết cung cấp năm 1967)
Trong những năm 1932 – 1935, các đảng viên bị địch bắt cầm tù vẫn kiên cường đấu tranh trong nhà tù Hỏa Lò và khắp các nhà tù khác. Cuối năm 1934, do sự kiện Bảo Đại lên ngôi vua, một số tù nhân được ân xá tha bổng, ông “được” giao về cho địa phương quản lí. Với nhiệt tình cách mạng và bắt nối được với tổ chức Đảng cấp trên, Chi bộ Đảng thôn Cung Quế lại được khôi phục và tích cực hoạt động dưới sự dẫn dắt của đồng chí bí thư Bùi Văn Thịnh.
Chính phủ Pháp tăng cường đàn áp khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân, lùng sục bắt cán bộ, phá hoại cơ sở cách mạng. Đồng chí Bùi Văn Thịnh một lần nữa lại bị mật thám Pháp bắt giam (ngày 14-7-1943) tại Ninh Bình, sau đó bị đưa về nhà tù Hỏa Lò. Là người cao tuổi nhất trong số những tù nhân bị giam tại đây, vết thương của ông càng thêm nặng vì những trận đòn tra tấn và sự khắc nghiệt của nhà tù. Càng lao khổ càng tôi luyện thêm ý chí kiên cường, ông và những người bạn tù đã lập một kế hoạch vượt ngục.
Bí mật liên lạc với các đồng chí ở bên ngoài và xác định được một đường cống ngầm từ phòng giam của ông, các bạn tù có thể theo đó thoát ra ngoài. Xà lim ông nằm ngay bên bức tường phía Tây của nhà tù Hỏa Lò, từ đó có thể cạy nắp cống ngầm rồi theo đường cống chạy dọc đường Quán Sứ ra đến đường Trần Hưng Đạo. Sẽ có các đồng chí được bố trí để đón anh em, hóa trang để thoát ngục. Đường cống ngầm rất hẹp, chỉ đủ chỗ cho từng tù nhân khom người dò từng bước. Lần lượt từng người được đưa vào cống ngầm đã được đào, bật sẵn nắp. Có 70 người đã xuống được cống, trong đó có các bạn tù như đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Hoàng Văn Thái… Còn lại ông Thịnh, sức khỏe suy yếu vì đòn tra tấn, ông không thể tự đi lại được. Đưa ông ra cống ngầm phải có người xốc nách, đỡ mới đi được nhưng cũng rất khó khăn, nói gì đến việc tự lần bước trong đường ống cống ngầm.Trong lúc anh em đồng chí còn do dự tìm phương án thì ông đã quyết định để tất cả những người còn khỏe mạnh ra trước, tranh thủ lúc trời tối, vượt ngục trước nửa đêm thì khả năng thành công càng lớn, sinh mạng của anh em đồng chí càng được đảm bảo, càng thoát được nhiều thì càng tăng cường sức mạnh cho cuộc cách mạng của dân tộc. Không thể chần chừ và không còn cách nào khác, anh em buộc phải nghe theo lời ông. Ông và 3 bạn tù khác vì vết thương quá nặng, sức yếu nên không thể trốn lần này. Cuộc chia tay đầy nước mắt, nhưng cả người ra đi lẫn người phải ở lại đều rạng ngời một niềm tin và hẹn ngày chiến thắng.
Rồi ngay sau đó, ông cố hết sức lấy chiếc chăn chiên thường dùng đắp ngụy trang cho nắp cống và phần đất đào bới bên miệng cống để che mắt địch.
Sáng hôm sau, khi đến giờ tập trung tù nhân, lính Pháp thấy vắng một lượng lớn tù, mới tá hỏa lùng sục. Không tìm được, chúng lôi 4 người còn lại ra tra tấn xét hỏi. Trọn một ngày (05/02/1945) ở Sở mật thám Hà Nội, ông Thịnh bị bọn giặc tra tấn dã man nhưng không một lời khai, chúng tra tấn ông đến chết. Ông đã ra đi trong đau đớn về thể xác nhưng vẫn cháy bỏng niềm tin mãnh liệt vào ngày chiến thắng của các đồng chí, của cuộc cách mạng dân tộc.
… đến hành trình nửa thế kỉ tìm mộ
Cậu con trai út cưng Bùi Văn Sướng mới ngày nào còn lẽo đẽo theo cha đi thăm nom bà con lối xóm, kể cả đi họp hành cha cũng cho đi theo, giờ đã là sinh viên Trường Đại học Bách Khoa. Những kỉ niệm về người cha giàu nhiệt tình cách mạng luôn là hành trang anh mang theo trong suốt cuộc đời. Anh vẫn nung nấu tâm nguyện đi tìm cha cho thỏa niềm mong mỏi của mẹ già với nỗi ngậm ngùi ấp ủ bấy lâu. Khi được lên Hà Nội học tập, anh đã tìm đến nhà những đồng đội của cha khi xưa – những bạn tù đã đồng cam cộng khổ cùng cha những ngày trong lao tù. Các đồng đội của cha đã tận tình dẫn anh ra tìm lại khu đất chôn liệt sĩ.
Khu nghĩa trang Bạch Mai xưa vốn nằm trong khuôn viên Đông Dương học xá cũ nay đã trở thành Trường Đại học Bách khoa với những khu giảng đường, sân vận động… không còn chút dấu tích gì của nghĩa trang xưa. Khi xây dựng trường, san lấp mặt bằng, gặp hài cốt, mộ chí, nhà trường đều phối hợp cùng chính quyền địa phương chuyển lên Yên Kì Bất Bạt. Liệu phần mộ cha anh có còn ở đâu đó trong khuôn viên trường hay đã được chuyển lên Yên Kì Bất Bạt? Ngậm ngùi, anh nhớ lại chuyến thăm nhà của những đồng đội xưa của cha: Hơn một tháng sau khi cha anh hi sinh, theo sự phân công của đồng chí Lê Đức Thọ (lúc đó là Bí thư xứ ủy Bắc Kì), các bác Trần Tử Bình, Trần Quyết, bà Nguyễn Thị Hưng (lúc đó là Bí thư Ban cán sự tỉnh Ninh Bình) … đã mang tư trang của cha anh, thư và quà của xứ ủy Bắc Kì và Tổng bộ Việt minh về thăm gia đình ở Gia Viễn – Ninh Bình. Khi đó cậu bé Sướng mới lên 8 tuổi. Nghe kể về cuộc vượt ngục năm 45, về sự ra đi dũng cảm của cha, trong đôi mắt trẻ thơ đã trào dâng nỗi đau xót tột cùng, nhưng cũng ánh lên niềm tự hào vô bờ bến. Theo chân những đồng đội cũ, mẹ và anh trai cả của Sướng ra Hà Nội để thăm phần mộ của cha. Khi đi tới Hà Nam, trong lúc đợi bác Trần Quyết và các đồng chí ghé thăm một cơ sở cách mạng cũ, thấy cảnh người chết đói ngập hai bên đường, lại thêm nỗi lo sợ trước bom rơi đạn lạc, lo cho các con nơi quê nhà, hai mẹ con đành phải quay về. Những năm tháng tàn khốc của chiến tranh đã khiến cho gia đình anh chưa có cơ hội để liên lạc đi tìm mộ cha. Và đó cũng chính là lí do mà phần mộ cha chôn sơ sài hồi nào, không người hương khói, nay bằng địa trong khu ruộng rau muống của trường Đại học Bách khoa, không chắc còn đó hay đã bị chuyển đi rồi.
Bằng mọi cách, anh đã đi tìm cha nhưng không được. Niềm đau đáu đó theo anh trong suốt những năm dài học tập và công tác, dù ở vị trí nào anh cũng cố gắng hoàn thành thật tốt nhiệm vụ để coi đó là niềm động viên an ủi hương linh người cha nơi chín suối. Cho đến ngày chủ nhật 16-3-1997, nhờ một nhà ngoại cảm địa phương cùng với các thông tin thu thập được từ các đồng đội và nhân dân, anh Sướng – giờ đã là Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải – đã tìm thấy hài cốt của anh trai mình, Liệt sĩ Bùi Quốc Tưởng, hi sinh năm 1951 ở Nghĩa Lộ, trong một hố chôn không có quan tài, giữa sân trường cấp I bản Nậm Kiệt, xã Nậm Lành, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Sau đó ông nhờ người có khả năng đặc biệt ấy về Hà Nội tìm bố, rồi lại thêm một nhà ngoại cảm khác giúp đỡ nhưng không thành công. Đang lúc thất vọng vì không tìm được mộ cha, ông tình cờ đọc được bài báo của tác giả Phạm Quang Đẩu đăng trên tờ Thế Giới Mới ngày 12-5-1997 giới thiệu “Nguyễn Văn Liên – một khả năng ngoại cảm đặc sắc”. Bằng mọi cách, ông đã tiếp cận được với anh Liên vào tối ngày 10-6-1997.
Ngay đêm gặp gỡ tại nhà anh Liên, chỉ nói tên bố, anh Liên đã lấy giấy bút vẽ ngay sơ đồ nơi chôn Liệt sĩ Bùi Văn Thịnh. Anh Liên khẳng định: “Mộ ông Thịnh vẫn nằm ở Hà Nội chứ chưa chuyển lên Yên Kì, Bất Bạt. Theo sơ đồ, hài cốt đặt tại bãi đất cao có cây lá nhỏ hoa đuôi vàng, sát bờ tường. Nằm cạnh một cống ngầm thoát nước ở độ sâu 1,75m. Phần mộ trông ra đầu sân vận động, dãy nhà C, tháp nước, chợ Bách khoa, đối diện với nhà bà Hòa và cách miệng hố bom từ 13 đến 19m”.
Anh Liên còn nói thêm: “Ông phải tìm ngay đi, nếu để muộn công trường người ta sắp xây nhà lên sẽ không tìm được nữa đâu”.
Cầm tấm sơ đồ, ở góc có những kí tự rất lạ, lòng đầy nghi hoặc, ông Sướng nhờ công an phường Bách khoa xác định tọa độ, thật bất ngờ: Tất cả đều đúng!
Trường Bách khoa đã xây cất biết bao nhà, vậy mà vẫn còn một bãi đất hoang trông ra sân vận động, chợ, tháp nước cũ kĩ, nhà C… Đo từ vị trí nghi có mộ đến miệng hố bom (vẫn còn dấu tích) đúng được 13,5m. Nơi đây một công ty xây dựng của Sở nhà đất đang thử tải để xây trụ sở phường. Từng đống bê tông để ngổn ngang, hàng rào lưới thép bao quanh. Điều đặc biệt lí thú là ông Sướng đã nhận ra hướng đường cống thoát nước ngầm từ sân vận động, nơi năm 1958, ông và các sinh viên khoa Xây dựng, trường ĐH Bách khoa đã làm sau khi từ công trường Bắc Hưng Hải về. Hồi đó, khi thầy Tạ Quang Bửu làm hiệu trưởng đã có chủ trương làm ống thoát nước ra sông Lừ để sân vận động của trường thoát khỏi cảnh ngập úng sau mỗi trận mưa. Chính ông Sướng cùng các bạn đặt ống thoát nước (đường kính 1,2m) ngay cạnh ngôi mộ này (chỉ cách ống nước 30cm). Nhận thông tin về phần mộ cha ngay trên khu đất mà mình đã từng sống – học tập và làm việc hàng chục năm, lòng ông trào dâng nỗi bùi ngùi, thương cảm, như có ngọn lửa hồng thắp sáng trong ông niềm tin vào những thông tin mà nhà ngoại cảm cung cấp.
(Phát quang hiện trường
Tháp nước cạnh nơi chôn cất Liệt sĩ Bùi Văn Thịnh)
7h sáng chủ nhật, trong mưa gió, ông Sướng đã tổ chức khai quật để tìm mộ cụ thân sinh. Đến 12h trưa, nhát cuốc chạm trúng cống thoát nước, cách mặt đất khoảng 70cm. Kiên trì đào trên diện rộng 6m2, đến 4h chiều ngày hôm sau thì phát hiện quan tài nằm dưới ống cống, song song với con đường nối nhà C và nhà D…
Cuộc điện đàm làm nhiều người kinh ngạc
5h chiều ngày 23 tháng 6 năm 1997, mọi người trong gia đình quyết định bật nắp quan tài. Có hàng trăm người dân phường Bách khoa đổ xô ra xem cuộc khai quật mộ được đồn là do chỉ dẫn của một người có khả năng đặc biệt. Cũng có rất nhiều Giáo sư, Tiến sĩ của trường Đại học Bách khoa đã chứng kiến cuộc điện đàm bằng điện thoại di động giữa ông Bùi Văn Sướng – con trai Liệt sĩ Bùi Văn Thịnh – với anh Nguyễn Văn Liên – ngồi ở Hải Dương, cách Hà Nội hơn 60km.
Trong khi xếp xương cốt vào tiểu, ông Sướng gọi điện hỏi anh Liên:
– Anh Liên ơi, tôi đã tìm thấy một quan tài rồi. Đây có phải là mộ bố tôi không? Anh cho tôi biết phải làm gì bây giờ?
– Ông đã xếp xương của cụ vào tiểu rồi, còn hỏi gì nữa! – Nguyễn Văn Liên trả lời.
Thực ra, ngay từ khi khai quật, đến quan tài, gặp những chiếc cọc tre, rồi khi bật nắp quan tài, thấy quai đôi dép cao su đúc nổi lên, Thứ trưởng Bùi Văn Sướng đã òa lên nức nở. Một luồng điện chạy dọc sống lưng, không chỉ mình ông cảm nhận thấy người cha đang hiển hiện nơi đây mà các anh chị em đều rưng rưng cảm động. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là mộ cha rồi. Đôi dép kia, chính là người bạn đường của cha bao năm đi tuyên truyền vận động cách mạng mà khi còn nhỏ ông thường thấy cha mang. Con cháu bảo nhau tìm cẩn thận từng mẩu xương xếp vào tiểu. Khi gọi điện cho anh Liên để kiểm tra xem còn sơ xuất gì không thì anh Liên nói: “Cánh thợ đã làm vỡ một mảnh xương sọ của cụ bằng đít cái thìa, ông cho con cháu xuống tìm ở gần giữa huyệt bên trái sẽ thấy!”.
Bủn rủn chân tay, thằng cháu nội lập tức nhảy xuống huyệt mò, y như rằng tìm ngay thấy mảnh xương, lắp vừa đúng vết vỡ trên sọ ông cụ.
– Anh Liên ơi, trong mộ còn gì nữa? – ông Sướng hỏi.
– Còn một đôi dép cao su nhưng chỉ còn quai, đế đã mục.
– Đúng thế – ông Sướng đáp lại.
– Quan tài làm bằng gỗ vối đã mục, ông xem các mảnh mà các cháu vớt lên có đúng là có mùi thơm gỗ vối không? – Nguyễn Văn Liên nói.
Nhiều người xô đến, người cầm, người đưa lên mũi ngửi, quả là có mùi hắc của gỗ vối.
– Có đúng mộ cụ nằm chéo góc với đường thoát nước nhưng song song với đường đất bên cạnh không? – anh Liên hỏi tiếp.
Mọi người có mặt đều thấy rõ điều đó nhưng ông Sướng nói chệch đi:
– Ở đây chỉ có đường nhựa chứ không có đường đất.
– Tôi đánh cuộc với ông đấy. Đây là đường đá gạch lổn nhổn chứ không có đường nhựa- anh Liên quả quyết.
Sự thật đúng như vậy. Đó chính là con đường gạch đá nối nhà C và nhà D trong trường Đại học Bách khoa khi đó chưa trải nhựa.
Có đúng là hài cốt liệt sĩ Bùi Văn Thịnh?
Việc tìm thấy quan tài liệt sĩ Thịnh ở đúng vị trí mà Nguyễn Văn Liên xác lập trên sơ đồ đã nhanh chóng lan truyền trong ngành giao thông vận tải và cả phường Bách khoa – quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Mọi người vô cùng khâm phục khả năng đặc biệt của anh Liên, nhưng cũng có câu hỏi đặt ra: “Liệu có phải là hài cốt liệt sĩ Bùi Văn Thịnh không, trong khi ta chưa có điều kiện giám định ADN?”. Tuy nhiên, ngay khi tìm thấy hài cốt, có mặt tại hiện trường – Giáo sư tiến sĩ Lã Ngọc Khuê, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải và anh Phạm Thế Minh lúc đó là Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (sau cũng là Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải) đã trích máu ở tay ông Sướng nhỏ giọt trên xương ống. Giọt máu vo tròn không lan tỏa. Tiếp tục nhỏ máu lên các mảnh xương khác không trơn láng hơn, máu bị hút hết vào trong, không còn vết tích trên xương.
Lại nữa, khi mò tìm trong quan tài, người nhà ông cũng tìm thấy một viên đạn. Trước đây, chính bác Trần Tử Bình – bạn tù củacha ông – khi về thăm gia đình ông đã kể: chính bác là người được phân công làm bia mộ cho Liệt sĩ Thịnh. Vật liệu sơ sài, chỉ có mảnh ván thôi bằng quyển sách ghi mấy dòng than củi: tên tuổi, quê quán, ngày mất. Thấy vậy, viên cai ngục chửi tục, sau đó móc túi bao đạn đeo ở lưng ném vào quan tài một viên và dặn mọi người: “Sau này các anh báo cho gia đình ông ấy, khi bốc mộ nếu thấy viên đạn này thì đúng là mộ ông ấy đấy”. Câu chuyện do các đồng đội của cha kể cho gia đình nghe vào đêm 12-3-1945 được mẹ kể đi kể lại nhiều lần nên ông Sướng đã nhập tâm.
(Lễ truy điệu LS Bùi Văn Thịnh tại Nghĩa trang Liệt sĩ
xã Gia Trấn – Gia Viễn – Ninh Bình)
Còn một chi tiết đặc biệt nữa mà ít ai biết. Ông Sướng bùi ngùi kể: “Năm 1931, khi mật thám Pháp bắt, tra tấn, cha tôi bị gãy mất hai chiếc răng gần cửa hàm trên. Thời gian bị quản thúc tại nhà, cụ đã lắp hai chiếc răng giả bịt bạc. Tôi là con út được cụ cưng chiều, thường hay cho ngồi trên bụng cha chơi, bắt cha há mồm lấy tay mân mê nghịch chiếc răng bạc này của cụ”.
(Đồng đội cũ đến viếng tại gia đình ở Hà Nội
Đ/c Trần Quyết – người đứng ngoài cùng bên phải)
Vậy là “nhân chứng, vật chứng” đã rõ ràng, đã tìm thấy hài cốt Liệt sĩ Bùi Văn Thịnh sau nửa thế kỉ hi sinh giữa thủ đô Hà Nội. Trong niềm xúc động khôn tả, gia đình và chính quyền địa phương đã tổ chức tang lễ long trọng đưa hài cốt Liệt sĩ về an nghỉ tại khuôn viên nghĩa trang gia đình tại quê nhà (Gia Trấn – Gia Viễn – Ninh Bình).
(Theo Tài liệu Lịch sử Đảng bộ xã Gia Trấn – Gia Viễn – Ninh Bình và lời kể của ông Bùi Văn Sướng tại Hội nghị giao lưu tìm mộ liệt sĩ ngày 06-7-1997 tạiBảo tàng cách mạng Hồ Chí Minh).
| Mục lục | bài tiếp theo |