Tìm thấy di hài liệt sĩ Trung tá tình báo Lý Văn Tố bằng khả năng ngoại cảm
Người chiến sĩ tình báo kiên cường
Đồng chí Lý Văn Tố (tức Lý Văn Liễn, bí danh Phạm Văn Bảo), sinh năm 1928 tại thành phố Đà Nẵng, nguyên Thường vụ Thành uỷ, Trưởng ban tổ chức Thành uỷ Đà Nẵng, nguyên trung tá, Phó ban điệp báo Liên khu V.
Đồng chí tham gia cách mạng trước tháng 8-1945, từ khi còn là học sinh. Vốn rất thông minh lại có trình độ học vấn cao, đồng chí đã nhanh chóng trở thành một cán bộ xuất sắc của Đảng. Từ năm 1953, đồng chí hoạt động trong ngành tình báo quân sự chiến lược, và năm 1954, khi những đoàn quân xuống tàu tập kết ra Bắc thì Lý Văn Tố cùng với những chiến sĩ tình báo khác như Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn Hữu Đà, Nguyễn Minh Vân, Phan Trọng Tịnh… lại âm thầm trở lại miền Nam, chuẩn bị cho một cuộc chiến trường kì…
Năm 1958, trên bước đường hoạt động, đồng chí bị bắt. Biết đồng chí là một cán bộ tình báo quan trọng, địch đã dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, tra tấn dã man hòng phá vỡ mạng lưới điệp báo của ta ở Liên khu V, nhưng chúng đã thất bại trước tinh thần dũng cảm tuyệt vời và lòng trung thành vô hạn với Đảng, với dân của người chiến sĩ tình báo kiên cường Lý Văn Tố. Chúng đã giam cầm, đầy đoạ đồng chí tại biệt ngục Chín Hầm, một địa ngục trần gian của Ngô Đình Cẩn, nơi chuyên giam giữ những cán bộ nòng cốt của Đảng. Tháng…/1961, chúng đã hèn hạ thủ tiêu đồng chí…
Tấm bản đồ và những thông tin đầu tiên
Sau ngày giải phóng miền Nam, gia đình đồng chí Lý Văn Tố và các cán bộ tình báo quân đội đã nhiều lần đi tìm hài cốt đồng chí. Nhưng trải qua bao năm tháng chiến tranh ác liệt, khu vực ngục Chín Hầm không còn dấu tích, vì thế việc tìm kiếm trở nên vô vọng.
Được sự đồng ý của Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường, Liên hiệp Khoa học – Công nghệ – Tin học ứng dụng (UIA), Viện Khoa học hình sự (Bộ Nội vụ – nay là Bộ Công an) và Trung tâm Bảo trợ Văn hóa – Kĩ thuật truyền thống (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) đã cùng tổ chức nghiên cứu trắc nghiệm tìm mộ liệt sĩ thất lạc bằng khả năng đặc biệt của anh Nguyễn Văn Liên (quê ở thôn Mĩ Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kì, tỉnh Hải Dương).
Ngày 21-8-1997, Tổng cục II (Bộ Quốc phòng) có công văn đề nghị Liên hiệp UIA giúp đỡ tìm kiếm các liệt sĩ tình báo hi sinh ở ngục Chín Hầm, trong đó có Liệt sĩ Lý Văn Tố.
Ngày 24-8-1997, tại Hà Nội, anh Liên đã cung cấp cho chị Nguyễn Thanh Tuyền (cán bộ TTXVN, em con cô con cậu của Liệt sĩ), những thông tin đầu tiên. Với anh Liên, thông tin “đầu vào” cực kì đơn giản: Anh chỉ cần biết họ của Liệt sĩ và quan hệ giữa Liệt sĩ với người đi tìm. Thế rồi, gần như ngay lập tức, không cần một sự cố gắng nào, anh vẽ một tấm bản đồ chỉ dẫn vị trí ngôi mộ và cho biết nhiều thông tin khác về liệt sĩ. Có cảm tưởng như những thông tin đó cứ tự nhiên tuôn chảy qua lời nói và cây bút vẽ của anh. Thân nhân liệt sĩ thường không nhớ được, phải ghi âm để về nghe lại… Tấm bản đồ mà anh vẽ cho chị Tuyền về những địa danh: Hương Trà, A Sầu, A Lưới… với những chi tiết, cụ thể đã làm kinh ngạc mọi người ở Huế, vì một người chỉ ngồi ở Hà Nội, lại vẽ ra được một tấm bản đồ chi tiết đến như thế. Nguyên việc ghi đúng các địa danh cũng đã là một điều kì lạ…
Trong lần đầu tiên này, anh cũng cho biết đến 51 thông tin khác nhau, trong đó có 36 thông tin đúng hoặc gần đúng (70%), 1 thông tin sai (2%) và 14 thông tin chưa xác định được đúng hay sai (28%). Có những thông tin đặc biệt đúng, chẳng hạn về tên Liệt sĩ, anh nói: “Anh ba tôi đứng vần T, là ông Tô hay ông Tố đây này”, hay anh nói về quả đồi nơi có mộ: “Đồi này không còn cam nữa, thông cũng không trồng, chỉ có bạch đàn, rau rậm”. Thực tế đúng như vậy, trong khi những đồi bên cạnh lại có rất nhiều thông.
Cuộc tìm kiếm với những lần “chỉnh mộ” từ xa bằng điện thoại
Ngay sau khi có được tấm bản đồ và băng ghi âm chỉ dẫn, ngày 26-8-1997 chị Tuyền lên máy bay vào Huế. Thường thì những cuộc tìm kiếm không mấy ai thành công ngay từ lần đầu, mà phải qua một vài lần điều chỉnh gọi là “chỉnh mộ”. Nếu ở gần thì người nhà chụp ảnh và mang bản đồ về, anh Liên sẽ chỉ dẫn, điều chỉnh trực tiếp. Những trường hợp ở xa, anh chỉnh qua điện thoại. Anh quy định thời gian chỉnh qua điện thoại là từ 5 đến 7 giờ chiều. “Điều khiển từ xa” – cái điều nghe như là viễn tưởng ấy, với anh lại là “chuyện thường ngày”. Anh nói chuyện với những người đang tìm mộ ở Huế, ở An Giang, ở Hải Phòng… như thể anh đang ở chỗ họ vậy…
Chiều 26-8, chị Tuyền cùng bốn người nữa đến khu vực tìm kiếm. Đầu tiên, chị tìm vào thắp hương ở ngôi chùa mà theo bản đồ thì đối diện với khu vực có mộ. Ở đây có một sự sai khác nhỏ: Trên thực tế, đó không phải là chùa mà là đền (Đền Mẫu). Người coi đền là anh Hiếu đã tận tình giúp chị trong suốt cuộc tìm kiếm.
Anh Hiếu dẫn đoàn tìm đến khu vực có mộ trên bản đồ. Cảnh quan ở đây đúng như anh Liên đã mô tả, nhưng không thể xác định được mộ ở chỗ nào. Gần 6 giờ, chị Tuyền điện về Hà Nội, lúc ấy mọi người đang đứng ở một ngã tư.
– Chị đang đứng ở chỗ ngã tư, ở đây có bảy người phải không?– Anh Liên hỏi.
– Dạ không, chỉ có sáu thôi ạ.
(Sáu người là: Đoàn chị Tuyền có năm người, trong đó có hai cán bộ tình báo cũ là ông Mai Vĩnh, ông Nguyễn Cảnh Xuân. Người thứ sáu là anh Hiếu – người coi đền).
– Bảy người, tôi nói là bảy người cả người lớn và trẻ con – anh Liên khẳng định.
Nghe thế, mọi người giật mình quay lại: một chú bé chăn trâu đang đến gần để xem (?!).
Sau đó anh Liên chỉ dẫn: Từ ngã tư đó, đi xuống chỗ u bò cách 13 thước, tìm ven đường có ba viên đá màu trắng bằng nắm tay chụm vào nhau, từ đó nhìn sang bên phải, trên vệ đường có nắm rác thông và gốc cây bạch đàn bị chặt…
Bấy giờ, trời tối nên không tìm được. Hôm sau, chị Tuyền lại đến ngã tư. Đi 13 thước, tìm kiếm, không thấy ba viên đá trắng, nhưng có ba cái vỏ ngao trắng toát chụm vào nhau (2 to + 1 nhỏ). Mọi người nhảy lên vệ đường, ở đó có mấy luống khoai. Qua mấy luống khoai, quả thực tìm thấy “nắm rác thông”. Đó là một cành thông nhỏ, bị gãy từ lâu, lá đã khô, mục.
Như vậy đã có nhiều điểm đúng như chỉ dẫn. Chị Tuyền gọi điện về, “cậu” chỉ nói ngắn gọn: “Đào đi, rồi 12 giờ gọi điện lại cho tôi”. Chị Tuyền cho đào một hố rộng 1,5m x 2,5m sâu 1,2m ngay chỗ rác thông. Đào suốt buổi sáng không thấy gì, chỉ có đất đồi màu vàng đỏ.
Sốt ruột, 11 giờ 30 chị lại gọi điện về.
Anh Liên: “Chị đang đào ở đầu ba luống khoai phải không?”
Chị Tuyền: “Dạ ở đây có bốn luống ạ”.
Một người dân: “Mới đào có ba luống thật vì một luống chưa đào đến”.
Anh Liên: “Có cây dứa dại phải không?”
Chị Tuyền: “Dạ, đúng, có một cây ở chân đồi, cách khoảng 4m”.
Anh Liên: “Có thấy gốc cây bạch đàn bị đốn không?”.
Chị Tuyền: “Dạ có. Khi phát cỏ để đào thì mới tìm thấy”.
Anh Liên: “Được rồi, lấy hố đó làm chuẩn chứ chưa có cốt đâu. Bây giờ đào rộng về phía chân đồi, sang phía tây nam 1,2m thì sẽ gặp”.
Mọi người triển khai ngay theo lời chỉ dẫn đó. Đang đào, bỗng một người sợ hãi nhảy lên khỏi hố. Đó là người làm ở hạt kiểm lâm địa phương, được chị Tuyền thuê đào, người này vốn có dị ứng với hài cốt. Anh lái xe xem xét kĩ, phát hiện thấy đất khác lạ, xốp như mối xông.
Chị Tuyền hồi hộp thắp hương cầu mong anh Tố phù hộ cho công việc. Rồi chị điện về Hà Nội. Anh Liên bảo: “Cứ đào đi. Đúng rồi đó. Đó là phần chân, còn phần đầu ông ấy ở hướng cây bạch đàn“. “Cậu” nói thêm: “Ở đấy đang có mười chín người chứ gì, một người đang chuẩn bị đi về”. Mọi người đếm: Đúng là mười chín người và một người đang định về thì dừng lại xem, sau mới về.
Ảnh minh hoạ
Đến 5 giờ 30, tìm thấy phần xương sọ, còn thấy có tóc và đất nâu xốp xung quanh.
Trời tối, công việc ngừng lại. Chị Tuyền báo cho Tổng cục II cùng các cơ quan hữu quan ở Huế, Đà Nẵng biết. Sáng hôm sau, từ 6 giờ 30, mọi người lại tiếp tục. Khi đó, số người đến rất đông. Những cán bộ của Tổng cục II, công an Huế, Đà Nẵng, ngành Lao động – Thương binh – Xã hội… trước đó anh Liên đã dự đoán sẽ có trên 60 người, quả đúng như vậy. Nhiều đồng chí đã trực tiếp xuống hố đào tìm kiếm, nâng niu chọn lựa phần di hài còn lại của liệt sĩ.
Lễ truy điệu trang nghiêm và cảm động
Ngày 29-8-1997, Thiếu tướng Trần Tiến Cung – Tổng cục phó Tổng cục II (Bộ Quốc phòng) cùng nhiều cán bộ Tổng cục, các tổ chức chính quyền, công an, quân đội ở Huế – Đà Nẵng cùng thân nhân gia đình đã long trọng tổ chức lễ truy điệu và rước thi hài liệt sĩ về nơi an nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Huế. Trong lễ truy điệu, đại tá Hoàng Văn Cầu đã đọc điếu văn ca ngợi sự hi sinh dũng cảm và những đóng góp xuất sắc của trung tá Lý Văn Tố đối với ngành tình báo quân sự Việt Nam.
Thế là sau 37 năm, người chiến sĩ tình báo xuất sắc Lý Văn Tố đã được trở về nơi an nghỉ vinh quang. Anh ra đi khi đất nước chìm trong nỗi đau chia cắt và đã hi sinh âm thầm dũng cảm nơi ngục tù tàn bạo lúc tuổi đời còn rất trẻ. 37 năm qua, Đảng, quân đội và gia đình luôn nhắc đến tên anh, đã bao lần tìm kiếm và đã tưởng là vô vọng. Thế nhưng hôm nay, anh đã được trở về. Đó là nhờ ở sự kì tài của khả năng con người hay là một sự mách bảo linh thiêng?
Xin cầu mong linh hồn anh và các liệt sĩ được siêu thoát. Xin các anh trợ giúp cho công việc đi tìm những liệt sĩ khác được thành công.
| Mục lục | bài tiếp theo |