• Home
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
    • Luân Hồi
    • Nhân Quả
  • Học Thiền
    • Người mới học
    • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Tổ Sư
      • Thiền Mật Tông
    • Thiền Tông
    • Thiền Nam Tông
    • Khóa Tu Thiền – Niệm Phật
    • Hỏi Đáp
  • Kinh
    • Phạn Ngữ/Hán Tạng
    • kinh Pali
    • Nghe đọc kinh
    • Giảng Giải Kinh
  • Luật & Luận
    • Luận
    • Duy Thức Luận
    • Thắng Pháp
    • Luật
  • Ăn Chay
  • Tâm Linh
    • Tâm linh ngoại cảm
    • Tâm linh và Phật giáo
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
    • Kiến thức cơ bản
    • Khái niệm cốt lõi
    • Phật Giáo Việt Nam
    • Khoa Học và Phật Giáo
    • Lịch sử Phật Giáo
  • Sách
    • sách thiền Đại Thừa
    • Thiền Tông
    • Sách về Niệm Phật
    • sách thiền Nam Tông
    • sách Kim Cang Thừa
    • Sách Tổng hợp
    • sách hay gợi ý cho bạn
  • Niệm Phật
  • Video
    • Phật Giáo Video
    • Thiền Học Video
  • Hỏi Đáp
  • Sức khỏe – Ẩm thực
No Result
xem toàn bộ kết quả
  • Home
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
    • Luân Hồi
    • Nhân Quả
  • Học Thiền
    • Người mới học
    • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Tổ Sư
      • Thiền Mật Tông
    • Thiền Tông
    • Thiền Nam Tông
    • Khóa Tu Thiền – Niệm Phật
    • Hỏi Đáp
  • Kinh
    • Phạn Ngữ/Hán Tạng
    • kinh Pali
    • Nghe đọc kinh
    • Giảng Giải Kinh
  • Luật & Luận
    • Luận
    • Duy Thức Luận
    • Thắng Pháp
    • Luật
  • Ăn Chay
  • Tâm Linh
    • Tâm linh ngoại cảm
    • Tâm linh và Phật giáo
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
    • Kiến thức cơ bản
    • Khái niệm cốt lõi
    • Phật Giáo Việt Nam
    • Khoa Học và Phật Giáo
    • Lịch sử Phật Giáo
  • Sách
    • sách thiền Đại Thừa
    • Thiền Tông
    • Sách về Niệm Phật
    • sách thiền Nam Tông
    • sách Kim Cang Thừa
    • Sách Tổng hợp
    • sách hay gợi ý cho bạn
  • Niệm Phật
  • Video
    • Phật Giáo Video
    • Thiền Học Video
  • Hỏi Đáp
  • Sức khỏe – Ẩm thực
No Result
xem toàn bộ kết quả
Thiền Phật Giáo
No Result
xem toàn bộ kết quả
Trang chủ Phật Học Lịch sử Phật Giáo

Đạo Phật Đời Lý

7 năm trước
A A
Đạo Phật Đời Lý
3.3k
chia sẻ
65.8k
xem
chia sẻ lên Facebookchia sẻ Twitter

Chú thích

| Mục lục | 

(*) Trích từ: “Lý Thường-Kiệt” của Hoàng Xuân-Hãn, nhà xuất-bản Sông-Nhị, Hà-nội, 1949.
(1) TUTA : Thiền-uyển tập-anh ngự-lục (Trần)
(2) BA : Bia chùa Báo-ân (Lý)

(3) Theo T.V.Giáp, các vị tăng đã qua Ấn-độ là: Vận-kỳ, người Giao-châu, Mộc-soa-đề-ba (Moksadeva) người Giao-châu, Khuy-xung người Giao-châu (mất ở Thiên-trúc), Tuệ-diệm người Ái-châu (ở lại Thiên–trúc), Trí-hạnh người Ái-châu (mất ở bắc-ngạn sông Hằng-hà), Đại-thặng-đăng người Ái-châu (mất ở Ấn-độ).3.

(4) HN Bia chùa Hương-nghiêm (Lý)
(5) TT Đại-việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)
(6) TB Tục-tư-trị thông giám trường-biên. Lý Đào (Tống)
TT : Đại-việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)
VSL : Việt-sử-lược (Trần)
TS : Tống-sử (Nguyên)
VĐUL : Việt-điện u-linh – Lý Tế-xuyên (Trần)
VSL : Việt-sử-lược (Trần)
TUTA : Thiền-uyển tập-anh ngự-lục (Trần) ; TT: Đại-Việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)

(7) – Theo TV. Giáp, các vị tăng đã qua Ấn độ là: Vận-kỳ người Giao-châu, Mộc-soa-dê-ba (Moksadeva) người Giao-châu, Khủy-xung người Giao-châu (mất ở Thiên trúc), Tuệ-diệm người Ái-châu (ở lại Thiên-trúc), Trí-hạnh, người Ái-châu (mất ở bắc-ngạn sông Hằng-hà), Đại-thặng-đăng người Ái-châu (mất ở Ấn-độ). 3.

(8) – Chuyện Nguyễn Bông. – Về chuyện Nguyễn Bông, sách TT chép: “Năm Quí-mão 1063, Lý Thánh tông đã bốn mươi tuổi, nhưng chưa có con. Vua sai viên chỉ hầu Nguyễn Bông tới cầu-tự ở chùa Thánh-chúa. Sau đó, Ỷ-lan phu-nhân có mang, sinh Càn-Đức, tức là Lý Nhân-tông.” Sách ấy lại chú-thích rằng: Sư chùa Thánh-chúa bày cho Bông phép đầu thai để vào làm con vua. Sự bại-lộ, nên Bông bị chém ở trước chùa, tại chỗ mà nay vẫn gọi là Cánh-đồng Bông. Chùa này, nay ở làng Dịch-vọng, huyện Từ-liêm, gần phía tây thị-trấn Hà-nội. Cánh-đồng Bông ở phía tây, trước cửa chùa.

Dã-sử và thần tích Ỷ lan thái-hậu (Xem sách Chuyện Ỷ-lan, nhà Minh-tâm xuất-bản) có kể rõ nhiều chi-tiết, và chép tên sư chùa Thánh chúa là Đại-điên. Đại-điên bảo Bông về nấp trong buồng tắm Ỷ-lan. Một hôm Ỷ-lan tắm thì bắt được Bông còn ẩn trong buồng. Vua Thánh-tông sai đem Bông đi chém. Khi qua chùa Thánh-chúa, Bông xin vào chùa để trách sư. Sư cười và trả lời: “Nếu không hủy thân này, thì sao đầu-thai được.” Bông mới hiểu mưu sâu của Đại-điên và chịu chết. Sách VSL không hề chép đến việc Nguyễn Bông.

Chuyện Giác-hoàng. – Về chuyện Giác-hoàng thì cả hai sách TUTA và VSL, soạn đời Trần, đều có chép. Sau đây, là dịch nguyên-văn trong VSL5.

“Tháng 2 năm Nhâm-thìn 1112, người Thanh-hóa nói ở bờ bể có một đứa bé lạ. Tuổi mới lên ba, mà người ta nói gì, nó cũng hiểu. Nó tự xưng là con đầu-lòng vua, và tự gọi là Giác-hoàng (nghĩa là Phật). Phàm vua Nhân tông làm việc gì, nó cũng biết trước. Vua sai sứ tới hỏi, thì quả đúng như lời đồn. Sứ bèn rước Giác-hoàng về Thăng-long, để ở chùa Báo-thiên (ở chỗ nhà thờ lớn Cơ đốc cạnh hồ Gươm). Vua thấy Giác-hoàng linh dị, càng yêu-dấu; và muốn lập làm thái tử. Triều-đình cho là không nên, vua bèn thôi.

“Vua mới sai đặt trai-đàn trong cung, muốn sai Giác-hoàng đầu thai để làm con mình. Có vị sư ở núi Phật-tích, tên Từ-Lộ, hiệu Đạo-hạnh, nghe tin ấy, lấy làm lo. Sư bèn giao cho em gái vài hạt châu có làm phép, và dặn rằng: “Đến xem hội, hãy giắt châu vào mái nhà, đừng để ai thấy.” Từ-thị làm đúng như lời. Bỗng-nhiên, Giác-hoàng phát cơn sốt mà ốm. Y bèn nói với người ta rằng: “Ta thấy trong nước lưới sắt bày la-liệt khắp; không có lối nào vào cung để thác sinh.”

“Vua sai lục tìm khắp trong chốn trai-đàn, thì thấy mấy hạt châu mà Từ-thị đã giấu. Vua sai bắt Từ Lộ trói ở hành lang Hưng thánh, rồi toan kết tội chết. Nhân lúc ấy, em vua, Sùng hiền hầu, vào chầu vua. Từ Lộ thấy, kêu-van thảm thiết rằng: “Mong Hiền-hầu cứu bần-tăng. Nếu bần-tăng được thoát, thì sẽ vào làm con Hầu để báo đức” Sùng-hiền-hầu nhận lời. Vào thăm vua, hầu tìm mọi cách cứu Đạo-hạnh. Hầu nói: “Nếu Giác-hoàng quả có thần-lực mà lại bị Từ Lộ làm phép yểm được, thì Lộ chả giỏi hơn Giác-hoàng hay sao? Sự ấy đã rõ. Tôi nghĩ rằng: chi bằng Vua cho phép Lộ vào thác-sinh.” Vua bèn tha cho sư. Còn Giác-hoàng, thì bệnh thành nguy-ngập. Y dặn người chung quanh rằng: “Sau khi ta mất, hãy dựng tháp ở Tiên-du để táng ta.”

Lời văn dịch trên đây gần giống y như văn trong sách TUTA. Có lẽ cả hai sách đều lấy gốc một nơi. Nhưng trong TUTA, ở chuyện Từ Đạo-hạnh (53b), có nói rõ vì cớ gì mà Đạo-hạnh lại không muốn để Giác-hoàng đầu-thai làm con vua Nhân-tông. Nhân-tiện đây, tôi sẽ kể lại chuyện Từ Đạo-hạnh, theo sách TUTA, để ta thấy dưới triều Lý đời sống đầy chuyện huyền-ảo, và ta có thể so-sánh với óc thực-tế của Lý Thường-Kiệt.

Chuyện Từ Đạo-Hạnh. – Đạo-hạnh họ Từ. Bố tên Vinh, làm chức tăng-quan đô-sát.Vinh từng du-học ở làng Yên-lãng (làng Láng ở gần phía tây thị trấn Hà-nội), lấy vợ họ Tăng ở đó, và ở lại làng ấy. Bà sinh Đạo-hạnh. Lúc bé Đạo-hạnh tính thích-thảng, có chí lớn. Cử-động thế nào, không ai lường được. Ngày thường, ông kết bạn cùng nho-giả Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn-Nghĩa, và con hát Vi Ất. Tối thì chịu khó đọc sách. Ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đánh bạc làm vui. Cha thường trách ông là lười biếng. Một đêm, cha lén vào phòng ngủ, dòm trộm, thì thấy đèn chong suốt đêm, sách-vở chồng đống. Ông thì tựa án ngủ, tay không buông sách. Từ ấy, cha không lo nữa.

Sau, ông dự kì thi tăng-quan, bèn đỗ.

Từ Vinh thường dùng tà-thuật quấy Diên thành-hầu (có lẽ là con vua Lý Thánh-tông). Hầu nhờ pháp-sư Đại-điên dùng phép đánh chết. Về đoạn này, thần-tích chùa Láng, chùa Thầy và các nơi thờ Từ Đạo-hạnh, có nói rằng Từ Vinh dùng phép tàng-hình, lọt vào trong hậu-cung của Diên-thành-hầu để ghẹo kẻ cung-nhân. Hầu nhờ Đại-điên bắt. Một hôm, Đại-điên lấy tro rắc trước cửa phòng cung-nhân, rồi đọc chú, vẽ bùa và trao cho cung-nhân một cuốn chỉ ngũ-sắc. Đại-điên dặn cung nhân rằng nếu Vinh tới thì lấy chỉ buộc mình y. Đêm ấy, Từ Vinh quả tới. Cung-nhân buộc chỉ vào lưng, rồi hô-hoán lên. Vinh túng thế, nhưng không chạy được; bèn biến hình làm con dán và trốn vào vách. Đại-điên tới tìm mãi không thấy. Sau thấy có râu dán trong vách lòi ra. Đại-điên cầm râu kéo ra, tì thấy một con dán trắng. Đại-điên đánh chết. Lại hiện ra thây Từ Vinh.

TUTA không chép chuyện con dán ấy, mà chỉ nói Đại-điên đánh chết Từ Vinh mà thôi. Sau đó, TUTA chép nối rằng Đại-điên vứt thây Vinh xuống sông Tô-lịch. Thây trôi đến cầu Vu-quyết (có lẽ Yên-quyết, ở gần góc tây-nam thành Thăng-long), trước nhà Diên-thành-hầu, thì thình-lình đứng dựng lên, mà trỏ tay vào nhà hầu. Hầu sợ, chạy mách Đại-điên. Pháp-sư tới đọc một câu kệ. Thây bèn trôi đi.

Đạo-hạnh muốn trả thù cha, nhưng kông có kế. Một hôm, ông rình Đại-điên. Lúc Pháp-sư đi ra, ông toan giơ gậy đánh, thì nghe trên không có tiếng mắng, bảo: “chớ, chớ!”. Ông sợ, bèn bỏ gậy mà chạy.

Ông muốn sang Ấn-độ học dị-thuật để chống với Đại-điên. Nhưng khi đi đến xứ mán Kim-xỉ (Mán răng vàng, có lẽ ở vùng Thượng-Lào hay Vân-nam), thì đường-xá hiểm trở quá, nên ông đành trở về. Ông bèn lên núi Từ-sơn mà ẩn. Ngày ngày, niệm kinh Đại-bi-tâm-đà-la-ni, niệm đủ một vạn tám nghìn lần. Một hôm,ông thấy thần-nhân tới nói rằng: “Đệ-tử là Tứ-trấn-thiên-vương. Cảm công-đức sư tụng kinh, cho nên lại hầu, để sư sai-khiến.”

Đạo-hạnh tự biết rằng mình đã học được đạo-pháp và thù cha sẽ trả xong. Ông bèn tới cầu Vu-quyết, cầm gậy thử, ném xuống sông. Gậy bèn trôi ngược dòng như rồng lội, đến cầu Tây-dương mới dừng. Ông mừng và nghĩ thầm rằng phép mình sẽ thắng Đại-điên. Ông bén đi thẳng đến nhà Đại-điên. Đại-điên thấy ông, liền nói: “Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?” Ông ngửng mặt lên trời, thì không thấy có gì lạ. Ông bèn lấy gậy đánh Đại-điên. Đại-điên phát bệnh mà chết.

Sau khi thù cha rửa sạch, ông bèn đi thăm các tùng-lâm, bàn đạo với các sư Trí-huyền ở Thái-bình và Sùng-phạm ở chùa Pháp-vân.

Rồi đến năm Hội-tường-đại-khánh thứ ba 1112, xảy ra chuyện Giác-hoàng đã kể trên.

Sau đó, Đạo-hạnh được tha. Ông xin đến nhà Sùng-hiền-hầu, dùng phép Đại-điên bày cho Nguyễn Bông trước, để đầu thai. Ông cũng nấp ở buồng tắm phu-nhân. Phu-nhân giận, mách. Hầu biết chuyện, nên không nói gì. Phu-nhân bèn có mng. Ngày chuyển dạ, phu-nhân theo lời Đạo-hạnh dặn trước, sai người lên chùa Thiên-phúc (chùa Thầy) báo tin cho ông. Đạo-hạnh bèn tắm rửa, thay quần-áo, rồi vào trong hang núi mà chết. Ấy là ngày Dương-hoán sinh, tức là Lý Thần-tông.

Sách TT chép vào tháng sáu năm Bính-thân 1126. Xác Đạo-hạnh không hư-hỏng. Dân làng giữ để thờ. Đến đời Minh Vĩnh-lạc, quân Minh sang đánh Hồ Quí-li, mới đốt mất. 6.

(9). – Chuyện Lê Văn-Thịnh. – Lê Văn-Thịnh đậu khoa nho đầu tiên ở nước ta, mở năm 1075; rồi được vào dạy vua Nhân-tông (1112). Năm 1084, Văn-Thịnh được sai tới trại Vĩnh-bình để chia địa-giới với Thành Trạc là quan Tống. Năm sau, được cất lên chức thái-sư. Y giữ chức tể-tướng trong mười hai năm. Năm 1096, y bị cách chức và đày đi nơi nước độc. Nguyên-do chỉ vì một việc tin dị-đoan rất thường thấy ở đương-thời. Các sách TT, VSL, VĐUL6, đều có chép chuyện ấy.

Văn-Thịnh nuôi được tên hầu, người Đại-lý (Vân-nam), biết làm phép thả hơi mù và biến thân thành hổ báo. Văn-Thịnh học lại được phép ấy. Y bèn lập kế giết tên hầu, và định dùng thuật ấy để cướp ngôi vua.

Bấy giờ vào tháng 11 (theo VSL, còn TT nói tháng ba, và VĐUL, nói mùa thu), vua Lý Nhân-tông dạo chơi hồ Dâm-đàm (Hồ-Tây) xem đánh cá. Vua cưỡi một chiếc thuyền chài, có tên Mục Thận người phường Tây-hồ (ở trên bờ bắc hồ), đứng đầu mũi, bủa lưới. Lúc thuyền ra đến giữa hồ, thình lình mù lên đen tối. Nhìn chung quanh không thấy rõ. Bỗng nghe tiếng thuyền chèo vụt-vụt, lướt qua mù tới thuyền vua. Qua mù, ai cũng nhìn thấy trong thuyền ấy có một con hổ lớn đang nhe răng như muốn cắn. Vua sợ lắm. Mục Thận thấy vậy cũng kêu nguy-cấp. Sẵn lưới ở tay, Thận ném vào thuyền kia, bắt được hổ. Thì lại hóa ra Lê Văn-Thịnh!

Vua sai lấy dây sắt trói vào cũi mà giam. Nhưng nghĩ rằng Văn-Thịnh là một đại-thần, từng có công to, vua không nỡ giết (TT). Bèn sai đày lên ở một trại ở thượng-lưu sông Lương (theo VSL, còn TT và VĐUL, đều nói sông Thao.)

Chuyện trên này tiêu-biểu cho sự mê-tín có ảnh-hưởng lớn đến chính-trị ở triều Lý. Sử còn cho biết nhiều chuyện chứng rằng Nhân-tông, cũng như các vua Lý về sau, rất tin ảo-thuật, và có thần-kinh dễ cảm-xúc. Cho nên, chỉ vì một việc xảy ra rất thường, mà Văn-Thịnh xuýt bị chết. Về tháng mười một, trận mù thình-lình tới trên hồ, đó là một sự thường có. Nhưng với tâm-thần hay bị xúc-cảm của vua Lý, khi thấy trời tối mà mình còn ở trên mặt nước, thì vua đâm ra hoảng-hốt. Có lẽ Văn-Thịnh, cũng vì thấy trời tối, mà vội-vã sai chèo thuyền gấp tới để hộ vua về. Ngồi trong thuyền bị trùng-triềng không vững. Văn-Thịnh phải ngồi khom mình, tay chống vào thuyền cho vững. Hình-dáng trông như con hổ. Một mặt khác, có lẽ Văn-Thịnh cũng tin vào các thuật, và có tiếng sẵn là đã học được phép hóa hổ. Cho nên, kẻ trông thấy hình con hổ trong thuyền lại càng nghi cho y muốn hại vua.

Cũng may cho y. Tuy vua tin dị-đoan, nhưng đạo Phật đã gieo mối từ-tâm, cho nên Văn-Thịnh không bị tru di tam tộc như Nguyễn Trãi đời sau. Các nhà bình luận phái nho ở đời sau, như Ngô Sĩ-Liên, còn trách rằng: “Nhân-thần mà mưu giết vua cướp ngôi, thế mà còn tha tội. Làm sai hình chính như vậy; ấy bởi vì lỗi vua quá sùng Phật.”

Sau đó, Mục Thận được ban chức đô-úy-tướng-quân, và đất Tây-hồ làm thực-ấp (TT). Mục Thận làm quan đến chức phụ-quốc tướng-quân. Sau khi mất, được tặng hàm thái-úy, và được vua sai lập đền ở phường nhà. Đền ấy nay vẫn còn. Sách VĐUL còn chép thêm rằng cạnh đền có một cổ-thụ rất to, hình dáng cong queo, như thân con rắn lớn. Cành lá thưa-thớt, trong thân có lỗ. Trong lỗ có con trăn làm tổ. Ngày sóc vọng, trăn vào đền, khoanh thành mấy vòng, nằm chầu.

Chuyện trâu trèo muỗm. – Lê Vãn là một tên lính ở giáp Cổ-hoàng (thuộc huyện Hoằng-hóa, tỉnh Thanh-hóa ngày nay). Người giáp ấy có kẻ thấy dấu-tích một con trâu trèo lên một cây muỗm. Xem ra, thì là trâu trắng. Khá lâu sau, trâu lại xuống bằng một lối khác. Lê Vãn bèn đoán rằng: “Trâu trắng là một vật ở thấp. Nay nó lại trèo lên cao. Đó là điềm kẻ dưới được lên ở trên.” Tuy các sách sử không nói, nhưng có lẽ Vãn là tuổi Sửu (cầm tinh con trâu), và tự cho rằng điềm ám-chỉ mình. Y bèn tụ quân làm loạn (TT). Bấy giờ vào năm 1192, đời Lý Cao-tông. Vua sai Đàm Dĩ-Mông đem quân Thanh-hóa dẹp. Dĩ-Mông sai đẵn chuối bỏ sông, ngăn cản thuyền của Vãn không bày thành trận đuược. Quân Dĩ-Mông thình-lình tiến tới đánh gấp. Quân Vãn liền tan. 6.

(10) – Chuyện Sư Giáng Hổ.– Mùa thu năm Đinh-mùi 1187, đời Lý Cao-tông, có một sư người Tây-vực (phía tây-bắc Ấn-độ) tới Thăng-long. Cao-tông hỏi: “Sư biết phép gì không?” Sư trả lời: “Biết giáng hổ.” Vua sai tên chỉ-hầu-phụng-ngự Lê Năng-Trường đem sư về công-quán ở, và sai người bắt hổ để thử. Hơn một tuần sau, sư nói với Năng-Trường rằng hổ ấy có thể phục được. Năng-Trường tâu vua. Vua sai dựng chuồng trong các Vĩnh-bình. Rồi bảo sư vào chuồng thử hổ. Sư đi ren-rén bước một, miệng đọc chú, tay cầm gậy. Đến trước hổ, sư lấy gậy đánh vào đầu hổ. Hổ vồ lấy gậy. Sư lui ra, tâu vua: “Có người nào ác, đã giải mất phép chú của tôi.”

Một hôm khác, vua lại sai thử lại. Sư xin làm đàn cầu Phật trước. Vua bằng lòng. Nhưng sư làm lễ lâu không chịu vào thử. Vua muốn thử cho đến cùng. Một hôm khác, vua ép sư vào chuồng hổ. Hổ nhảy lồng lên rường nhà, cào, thét. Sư sợ quá, lùi, không biết làm gì nữa. Bèn tựa chuồng mà chết.

Chuyện Thủy-Cung. – Lý Cao-tông thường say đắm chơi bời. Thường lấy vải lụa bọc sáp chung-quanh, rồi vứt xuống hồ trong Thượng-uyển, và sai kẻ hầu lặn xuống mò lên, để giả làm như Thủy-cung đem hiến. Sau, có tên hầu là Vũ Cao, sợ phải lặn mò. Y bèn bịa đặt kể lại chuyện sau: “Cao qua chơi trên bờ hồ. Thấy một người lạ, cầm lấy tay mà dắt đi. Đến gốc cây muỗm trên bờ hồ, người kia kéo Cao bảo đi xuống nước. Cao sợ chết đuối, không giám tiến. Một lát, thấy nước rẽ ra. Cao bèn đi vào. Đến một nơi, thấy cung-điện nguy-nga, thị-vệ nghiêm-chỉnh. Cao hỏi ai ở đó. Người kia trả lời: ta ở đó để quản hồ này. Rồi người kia sai giọn mâm-cỗ, cùng Cao uống rượu. Rượu xong, Cao xin về. Người kia đưa cho cau cầm tay, rồi dẫn ra. Đến gốc cây muỗm, thì không thấy người kia đâu nữa, mà trong tay, cau đã hóa ra mấy viên đá. Bấy giờ Cao mới biết hồ có thần.”

Cao-tông nghe chuyện, không sợ-hãi gì cả, mà còn sai chôn sắt để yểm thần. (VSL 1206)

Chuyện gọi nước. – Đến mùa đông, nước hồ cạn. Cao-tông không thể dong thuyền chơi trên hồ được. Vua bảo kẻ hầu chung-quanh: “Có ai làm phép cho nước sông lên đầy hồ được, thì ta sẽ hậu-thưởng.” Có tên Trần Túc trả lời: “Tôi làm được.” Không phải như ta tưởng; Túc không làm máy tát nước đâu. Y định làm phép chú. Vua sai làm, nhưng nước không lên. (VSL 1206)

Chuyện giáng sấm. – Tính Cao-tông sợ sấm. Mỗi lúc nghe sấm động thì run sợ. Có tên cận-thần Nguyễn Dư khoe rằng mình có phép giáng sấm. Gặp khi có tiếng sấm kêu, Cao-tông bảo nó làm phép. Dư ngửng mặt lên trời đọc chú. Sấm lại càng kêu lớn. Vua hỏi tại sao, Dư trả lời: “Tôi đã răn nó từ lâu, mà nó còn cường-bạo như thế đó!” (VSL 1206).6

(11) – Sau đây, kê những việc các vua Lý làm, có liên quan với đạo Phật, Lão và Nho. Bảng kê theo hai sách TT3 và VSL4. Khi nào cả hai sách cùng chép một việc, thì sau việc ấy, có đánh dấu (C). Khi nào chỉ một sách chép chuyện ấy mà thôi, thì chỉ đánh một dấu (T) hay (V). Còn về cách chép năm, thì trong khoảng từ năm 1133 đến 1155, hai sách ấy chép lệch năm nhau. Trong khoảng 1133-1139, cũng cùng một chuyện, sách TT chép chậm lại một năm đối với VSL. Trong khoảng 1140-1155, sách TT chép chậm đến hai năm đối với VSL. Muốn biết đâu là hư thực, ta phải so sánh với những tài-liệu thứ ba.

Trong khoảng đầu, TS5 và bia Đỗ Anh-Vũ đều cho ta biết rằng Lý Thần-tông mất năm Đ. Tị 1137, y như trong VSL. Thế mà TT lại chép chuyện ấy vào năm sau. Ta phải nhận rằng TT sai, mà VSL đúng. Vì đâu có sự sai ấy? Xét kỹ, ta thất TT bỏ sót mất đề-mục năm Q. Sửu 1133, cho nên chép chuyện năm ấy vào năm sau: rồi sự sai ấy kéo truyền đến năm Canh-thân 1140, mà ta phải chữa ra K. Vi 1139.

Trong khoảng thứ hai, TS cho ta biết rằng tháng 4 năm A. Su 1145, có sao Chổi hiện. Thế mà sách TT lại chép vào năm 1146, và VSL lại chép vào năm 1144. Vả chăng, TT còn cho biết rằng năm ấy có tháng 6 nhuận; mà theo lịch Tống thì chính năm A. Su có tháng nhuận. Vậy những việc chép vào năm có sao Chổi đều thuộc về năm A. Su 1145. Trong khoảng nói đây, 1140-1145, TT vẫn chép chậm một năm, mà VSL lại chép sớm một năm.

Trong bảng kê sau đây, tôi sẽ theo nguyên-tắc trên mà chữa niên-kỷ của hai sách. 

Đời Lý Thái-Tổ. – Năm: 

1010, dựng chùa riêng Hưng-thiên-ngự-tự và lầu Ngũ-phượng-tinh-lâu trong thành nội. Dựng chùa Thắng-nghiêm ở phương nam thành Thăng-long (C). Phát 2 vạn quan tiền để dựng 8 chùa ở phủ Thiên-đức, đều có dựng bia ghi công. Sức cho các làng phải trùng-tu chùa-chiền. Phát 1.680 lạng bạc để đúc chuông chùa Đại-giáo . Chọn dân làm tăng. (T)

1011, trong thành, dựng cung Thái-thanh ở bên tả, chùa Vạn-thọ ở bên hữu. Dựng nhà tăng-kinh Trấn-phúc. Ngoài thành, dựng chùa Tứ-dạ-thiên-vương (T). Dựng chùa Cẩm-y và Long-hưng-thanh-thọ (C).

1014, tăng-thống Thẩm Văn-Uyển xin lập giới-trường ở chùa Vạn-thọ để cho tăng-đồ thụ-giới (xem 1011). Phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng-thiên, và 800 lạng bạc để đúc chuông chùa Thắng-nghiêm và lầu Ngũ-phượng (xem 1010). (T)

1016, dựng các chùa Thiên-quang, Thiên-đức, và tô tượng Tứ-thiện-đế (C). Dựng đền Lý Phục-Man. Chọn hơn 1.000 người ở kinh-sư, cho làm tăng và đạo. (T)

1018, sai Nguyễn Đạo-Thanh và Phạm Hạc đi Tống xin kinh Tam-tạng (C). Năm 1020 mới về. Vua Lý sai sư Phi Trí tới Quảng-châu đón. (T)

1019, độ dân làm tăng. (T)

1021, dựng núi Nam-sơn chúc thọ (C). Dựng nhà tăng-kinh Bát-giác (T).

1023, sai viết lại kinh Tam-tạng, rồi trữ tại tàng-kinh Đại-hưng. (T)

1024, dựng chùa Chân-giáo ở trong thành nội, để tiện việc tụng kinh. (T)

1027, sai viết kinh Tam-tạng.

Đời Lý Thái-Tông. – Năm:

1028, dựng núi Nam-sơn chúc thọ. Dựng miếu thần Đồng-cổ ở phía hữu thành Đại-la, cạnh sau chùa Thánh-thọ. Đặt các giai-cấp cho tăng và đạo. (T)

1031, sai chữa và dựng nhiều chùa và quán; sách VSL chép 150 nơi, sách TT chép 950 nơi. Lập pháp-hội. Đặt chức ký-lục coi cung Thái-thanh (xem 1011) và giao cho đạo-sĩ. (T)

1034, vua thăm chùa Trùng-quang ở núi Tiên-du. Dựng nhà tàng-thư Trùng-hưng. Sai Hà Thụ và Đỗ Khoang đi sứ Tống. Vua Tống tặng cho kinh Tam-tạng. Hai vị tăng Nghiêm Bảo-Tính và Phạm Minh-Tâm tự thiêu; sai để xá-lị ở chùa Trường-thánh (T). Đào được hòm xá-lị ở chùa Pháp-vân tại Cổ-Pháp (C).

1035, cấp 6 nghìn cân đồng để đúc chuông chùa Trùng-quang (xem 1034); chuông “tự dời đến chùa”. (T)

1036, khánh-thành phật-hội Đại-nguyện ở Long-trì. Sai viết kinh Đại-tạng để trữ ở tàng-thư Trùng-hưng (xem 1034). (T)

1037, tượng Phật cổ ở dưới đất mọc ra ở một vườn dâu tại Ô-lộ. (T)

1038, dựng bia chùa Trùng-quang (xem 1034) (T)

1040 đặt hội La-hán. Khánh-thành một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ, một nghìn bức tranh và một vạn cờ phướn. (T)

1041, xây viện Thiên-phúc ở núi Tiên-du; cấp 7.560 cân đồng để đúc tượng Di-lặc và chuông, đặt tại viện ấy (T)

1043, vua đi thăm chùa cổ ở núi Tùng-sơn tại châu Vũ-ninh. Chùa đã đổ. Có một cột đá tự nhiên dựng lại. (T)

1048, dựng đàn Xã-tắc ở ngoài cửa Trường-quảng, để cầu được mùa (C). Đặt lễ rước trâu đất đầu mùa xuân (V).

1049, dựng chùa Diên-hữu, tức chùa Một-cột (C). Nguyên vua mộng thấy Phật-bà Quan-âm ngồi trên đài hoa sen, đến dẫn vua lên trên đài. Lúc tỉnh, vua kể chuyện lại Triều-thần cho là điềm gở (điềm vua chết). Sư Thiền-tuệ khuyên nên xây chùa, dựng cột đá giữa hồ, đặt đài hoa sen có tượng Quan-âm ở trên, như thấy trong mộng. Tăng-đồ đi vòng quanh đài, tụng kinh để cầu cho vua sống lâu (T).

Đời Lý Thánh-Tông. – Năm: 

1055, dựng chùa Đông-lâm (TUTA nói ở Điển-lạnh) và chùa Tĩnh-lữ, ở Đông-cứu. (V)

1056, lập hội La-hán ở điện Thiên-an (V). Dựng chùa Sùng-khánh-báo-thiên; phát 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa. Vua tự làm bài minh khắc vào chuông. Chùa này thường gọi là chùa Báo thiên, ở chỗ nhà thờ lớn Cơ-đốc tại Hà-nội ngày-nay. (C)

1057, xây tháp Đại-thắng-tư-thiên, tức tháp chùa Báo-thiên (xem 1056). Tháp cao vài mươi trượng. TT chép tháp có 12 tầng, VSL chép 30 tầng chắc sai. Dựng các chùa Thiên-phúc và Thiên-thọ ; đúc tượng Phạn-vương và Đế-thích để thờ ở đó. (C)

1058, vua đi xem chỗ xây tháp Đồ-sơn (ở nơi khách-sạn lớn tại mỏm núi Đồ-sơn ngày nay). (V)

1059, dựng chùa Sùng-nghiêm-báo-đức ở châu Vũ-ninh. Vua đặt tên cho tháp Đồ-sơn là Tường long, vì “có rồng vàng hiện ở điện Vĩnh-thọ”. (V)

1063, dựng chùa ở núi Ba-sơn để cầu-tự. (V)

1066, sai lang-tướng Quách Mãn dựng tháp ở núi Tiên-du. (C)

1070, dựng chùa Nhị-thiên-vương ở đông-nam thành Thăng-long (V). Tháng 8, dựng (hay chữa, TT chép tu) văn-miếu; tô tượng Khổng-tử, Chu-công, tứ-phối, thất-thập-nhị-hiền để thờ. Cho hoàng thái-tử ra đó học (T).

1071, vua viết chữ Phật, cao một trượng 6 thước (C); khắc vào bia để tại chùa núi Tiên-du. (T)

Đời Lý Nhân-Tông. – Năm: 

1072, ngày Phật-đản, vua tới xem làm lễ tắm Phật. (C)

1073, rước phật Pháp-vân về kinh để cầu tạnh. Lập đền thờ núi Tản-viên (VSL chép vào năm trước).

1075, thi minh kinh bác-sĩ. (T)

1077, đặt hội Nhân-vương ở điện Thiên-an. (V)

1080, đúc chuông chùa Diên-hữu (xem 1049), chuông không kêu, bèn vứt xuống ruộng Qui-điền, cạnh chùa. Đời sau, tướng Minh là Vương Thông bị Lê Lợi vây ở Thăng Long, bèn phá chuông để đúc súng. (T)

1081, sai Lương Dũng-Luật sang Tống xin kinh Đại-tạng. (V)

1085, thái-hậu đi chơi khắp sông núi, có ý dựng chùa. (T; nhưng chép lầm ra hoàng-hậu).

1086, thi chọn những kẻ có văn-học, để bổ vào Hàn-lâm. Dựng chùa ở núi Đại-lãm. (C)

1087, khánh-thành chùa ấy. Đặt dạ-yến. Vua làm hai bài thơ. (C)

1088, phong sư Khô-đầu làm quốc-sư. Chia chùa làm ba hạng, thượng, trung, hạ. Dựng tháp ở chùa Lãm-sơn (xem 1086). (C)

1094, tháp chùa Lãm-sơn (xem 1088) xong. Vua đặt tên chùa là Cảnh-long-đồng-khánh, và đề tên bằng chữ triện vào trán bia. (V)

1097, được mùa, thái-hậu dựng nhiều chùa .(T)

1098, lập núi Ngao trên đất. Sai Nguyễn Văn-Tín đi sứ Tống, xin kinh Tam-tạng. (V)

1099, dựng chùa ở núi An-lão. (V)

1100, dựng chùa Vĩnh phúc ở núi Tiên-du. (V)

1101, dựng quán Khai-nguyên (V). Chữa chùa Diên-hữu (xem 1080). (C)

1102, dựng quán Thái-dương, Bắc-đế và Khai-nguyên (xem 1101), để cầu-tự. (V)

1105, xây hai tháp lợp bằng ngói sứ trắng ở chùa Diên-hữu và chữa chùa ấy (xem 1101, còn chi tiết thì xel XIV/7). Dựng ba tháp bằng đá ở chùa Lãm-sơn (xem 1094). (C)

1108, xây tháp ở núi Chương-sơn. (V)

1109, xây đài Động-linh. (V)

1110, mở hội đèn Quảng-chiếu ở ngoài cửa Đại-hưng. (V)

1112, xẩy ra chuyện Giác Hoàng (XIV cth 2)

1114, chữa chùa Thắng-nghiêm (xem 1014). Đặt Thiên-pháp-đường. Dựng lầu Thiên-phật để đặt một nghìn pho tượng Phật (V)

1115, khánh-thành chùa Sùng-phúc ở làng Siêu-loại, là quê thái hậu Ỷ-lan (V). Trước sau, thái hậu dựng hơn trăm ngôi chùa. Thế truyền rằng thái-hậu hối việc ép Thượng-dương và các cung-nữ chết, cho nên dựng nhiều chùa để sám-hối. (T)

1116, mở hội đèn Quảng-chiếu. Từ Đạo-hạnh mất và đầu-thai (xem XIV/cth 2). (C)

1117, khánh-thành tháp Vạn-phong-thành-thiện ở núi Chương-sơn (xem 1108). Thái-hậu Ỷ-lan mất. Hỏa táng, và ba cung-nữ chết theo. (C)

1118, khánh-thành tháp Thất-bảo. Khánh thành hội Thiên-phật ở các chùa Thắng-nghiêm (xem 1114) và Thánh-thọ (xem 1028); có dẫn sứ Chiêm-thành đi xem. Cầu được mưa. Vua viết vào bia tám chữ: Thiên-hạ thái-bình, Thánh-cung vạn-phúc. (T)

1119, khánh-thành hội chùa Tĩnh-lữ (xem 1055). (C)

1120, đặt hội đèn Quảng-chiếu (T). Dựng đài Chúng-tiên. (C)

1121, dựng chùa Quảng-giáo ở núi Tiên-du (C). Khánh thành điện Trùng-minh ở chùa Báo-thiên (xem 1057) .(T)

1122, khánh-thành tháp Sùng-thiện-diên linh ở núi Đội-sơn (C).

1123, khánh-thành chùa Quảng-giáo (xem 1121) và chùa Phụng-từ. Dựng đài Tử-liêu. (T)

1124, dựng chùa Hộ-thánh (T). Cầu mưa và xây đài Uất-la. (C)

1126, mở hội đèn Quảng-chiếu, hội Nhân-vương ở Long-trì, hội khánh-hạ Ngũ-kinh ở chùa Thọ-thánh (hay Thánh thọ xem 1118). (T)

1127, khánh thành chùa Trùng-hưng-diên-thọ. Vua mất. Cung-nữ lên hỏa-đàn chết theo vua. (T)

Đời Lý Thần-Tông. – Năm: 

1128, vua tới chùa Thiên-long và Thiên-sùng để tạ sự cờ phướn ở đó tự-nhiên bay. Vua lại tới hai cung Thái-thanh (xem 1011), Cảnh-linh và các chùa quán khác để tạ ơn Phật. Cầu mưa được. (T)

1129, đặt hội khánh-thành tám vạn bốn nghìn bảo-tháp ở các Thiên-phù (có lẽ tháp bằng đất nặn, nay còn thấy nhiều ở đưới đất thành Thăng-Long). (C)

1130, khánh-thành chùa Quảng-nghiêm-tư-thánh. (T)

1132, làm lễ nghinh-xuân ở đình Quảng-văn, trước cửa Đại-hưng, nay là cửa Nam. (T)

1133, dựng các quán Diên-sinh và Ngũ-nhạc (C). Dựng hai hùa Thiên-ninh và Thiên-thành. Tô tượng Đế-thích. Vua tới xem. (T)

1134, khánh-thành ba tượng Tam-tôn bằng vàng để ở quán Ngũ-nhạc (xem 1133). Khánh-thành quán Diên-sinh (xem 1133). (T)

1135, chuông cổ ở dưới đất lộ ra (C). Vua ốm nặng, sư Minh-không chữa lành. (T)

1136, rước Phật Pháp-vân về chùa Báo-thiên để cầu mưa. Khánh-thành chùa Linh-cảm. (T)

Đời Lý Anh-Tông. – Năm: 

1142, vua cầu mưa. (T)

1144, vua cầu tạnh. Dựng đền thần Tản-viên (xem 1073), và đền ông Nghiêm, ông Mẫu ở phường Bố-cái. Dựng chùa Vĩnh-long và Phúc-thánh. (T)

1148, đặt hội Nhân-vương ở Long-trì. (T)

1154, đắp đàn Viên-khâu ở phía nam thành Thăng-long để tế lễ Nam-giao. (V)

1156, dựng miếu Khổng-tử (xem 1070). (C)

1160, dựng đền Nhị-nữ (Hai bà) và X y-vưu ở phường Bố-cái (V). Dựng chùa Chân-giáo. Lấy vàng đúc tượng Phạn-vương và Đế-thích, đặt ở hai chùa Thiên-phù và Thiên-hữu. (V)

1161, dựng lại chùa Pháp-vân ở châu Cổ-pháp. (C)

1162, dựng đài Chúng-tiên, trên lợp ngói bằng vàng, dưới lợp ngói bằng bạc. (V)

1165, mở hội đèn Quang-chiếu-diên-mệnh. (V)

1166, bắt đầu làm lễ tắm Đạo. Đến năm 1171 thì bỏ lễ ấy. (V)

1169, chữa chùa Chân-giáo (xem 1160). Rằm tháng ba, có nguyệt-thực, cá ở các cửa sông, cửa bể chết nổi. Vua sai các tăng, ni, đạo-sĩ tụng kinh cầu đảo. (T)

1171, chữa miếu Khổng-tử (xem 1156) và miếu Hậu-thổ. (C)

Đời Lý Cao-Tông. – Năm: 

1179, chữa thêm chùa Chân-giáo (xem 1169). Thi các tử-đệ tăng và tăng-quan. (V)

1180, sai Tam-giáo làm bia để ở Đại-nội. (V)

1187, chuyện sư giáng hổ (XIV cth 4)

1188, vua đi cầu mưa ở chùa Pháp-vân, rồi rước tượng Phật ở đó về để tại chùa Báo-thiên. (T) Dựng cung Thánh-nghi. (V)

1189, vua đi chơi khắp mọi nơi; đến đâu cũng có phong thần và lập miếu. (T)

1194, lấy vàng sai thếp tượng Phạn-vương và Đế-thích, đặt tại các chùa ấy. (V)

1195, thi Tam-giáo. Mở hội đèn Quảng-chiếu. (V)

1198, sa thải tăng, theo lời Đàm Dĩ-mông (XIV 4)

1206, dựng chùa Thánh huân. Chữa chùa Chân giáo (xem 1179). (V) Chuyện vua sợ sấm (XIV 4)

Đời Lý Huệ-Tông. – Năm: 

1224, vua nhường ngôi cho công chúa Chiêu thánh, và ra ở chùa Chân-giáo (xem 1206)

1226, vua Lý tự thắt cổ chết ở chùa ấy. (T)

| Mục lục | 

–> bài đọc thêm: 

  • Phật giáo từ Ấn Độ trực tiếp truyền vào Việt Nam như thế nào
  • Khởi nguồn dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
Page 8 of 8
Prev1...78
Thẻ: đạo phật đời lýđạo phật thời lýphật giáo thời lý
Tượng Phật 1.700 năm bị phá hủy tại Pakistan

Hoà thượng Thích Thánh Nghiêm giảng về Mật Pháp

Câu chuyện về con lừa

Bản Liệt Kê: Phật Giáo Sơ Thời(Nguyên Thủy) Khác Với Theravada Điểm Nào

Vén màn bí mật về những loại bùa chú Thái Lan: Tượng, búp bê mang bùa chú tâm linh được “nuôi” như trẻ nhỏ trong nhà

Tội ác văn hóa của thực dân Pháp với Phật giáo ở Việt Nam

Thánh tích Nalanda, nơi giặc Hồi giáo sát hại hơn 3000 tăng sĩ Phật giáo cổ đại

Thánh tích Nalanda, nơi giặc Hồi giáo sát hại hơn 3000 tăng sĩ Phật giáo cổ đại

Bài Tiếp
Khai Thị Quyển 3 – Hòa Thượng Tuyên Hóa – Video

Thiền Sư Việt Nam - Thích Thanh Từ p2

Để lại bình luận Cancel reply

No Result
xem toàn bộ kết quả

Xem nhiều gần đây

Phạn Ngữ/Hán Tạng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch

Phật Học Cơ Bản – Tập Bốn

Phật Học Cơ Bản – Tập Bốn

Hành Trình Về Phương Đông

Hành Trình Về Phương Đông

Ngôi nhà chết chóc bí ẩn ở Thái Bình – Kỳ 5 – Cả trăm nhà tâm linh bỏ chạy

Ngôi nhà chết chóc bí ẩn ở Thái Bình – Kỳ 5 – Cả trăm nhà tâm linh bỏ chạy

Những dấu hiệu khi có Lục Thần Thông Thanh Tịnh – Video

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Quyển 2 – Thích Trí Tịnh dịch

Những dấu hiệu khi có Lục Thần Thông Thanh Tịnh – Video

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Quyển 4 – Thích Trí Tịnh dịch

Thienphatgiao.Org@2021
Tâm Buông Xả - Hết Phiền Não
Liên hệ, gửi bài → thienphatgiao.org@gmail.com

  • Trang chủ
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Tâm Linh
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
  • Học Thiền
  • Kinh
  • Luật & Luận
  • Ăn Chay
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
  • Kiến thức cơ bản
  • Sách Thiền
  • Sách video
  • Hỏi Đáp
  • Tổng Hợp
  • Diễn Đàn Xây Dựng
  • Tin Phiền Não
  • Nghiên cứu Phật học
  • Pháp thoại – Khai thị
  • Ủng Hộ Web/Donate

Nguyện đem công đức này - Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh - Đều trọn thành Phật đạo.

No Result
xem toàn bộ kết quả
  • Home
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
    • Luân Hồi
    • Nhân Quả
  • Học Thiền
    • Người mới học
    • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Tổ Sư
      • Thiền Mật Tông
    • Thiền Tông
    • Thiền Nam Tông
    • Khóa Tu Thiền – Niệm Phật
    • Hỏi Đáp
  • Kinh
    • Phạn Ngữ/Hán Tạng
    • kinh Pali
    • Nghe đọc kinh
    • Giảng Giải Kinh
  • Luật & Luận
    • Luận
    • Duy Thức Luận
    • Thắng Pháp
    • Luật
  • Ăn Chay
  • Tâm Linh
    • Tâm linh ngoại cảm
    • Tâm linh và Phật giáo
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
    • Kiến thức cơ bản
    • Khái niệm cốt lõi
    • Phật Giáo Việt Nam
    • Khoa Học và Phật Giáo
    • Lịch sử Phật Giáo
  • Sách
    • sách thiền Đại Thừa
    • Thiền Tông
    • Sách về Niệm Phật
    • sách thiền Nam Tông
    • sách Kim Cang Thừa
    • Sách Tổng hợp
    • sách hay gợi ý cho bạn
  • Niệm Phật
  • Video
    • Phật Giáo Video
    • Thiền Học Video
  • Hỏi Đáp
  • Sức khỏe – Ẩm thực

© 2019 Thienphatgiao.org

Welcome Back!

Login to your account below

Forgotten Password?

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.

Log In

Add New Playlist