Phần 3
Chương 11
Quả Báo Tâm Lý
Chúng ta đã thấy rằng tánh kiêu căng – một thói xấu về mặt tinh thần – có thể gây nên những quả báo cụ thể về mặt vật chất qua hình thức những bệnh tật khốn khổ. Những tập hồ sơ của ông Cayce cũng chứa đựng nhiều trường hợp mà những tội lỗi trên địa hạt tinh thần gây nên quả báo về mặt tâm lý. Trong số đó có hai trường hợp đáng kể về quả báo khiến cho đương sự rơi vào tâm trạng lạc loài cô đơn mà nguyên nhân là thiếu sự khoan dung trong ứng xử.
Trường hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu viện Pháp vào thời vua Louis XIV. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng và thiếu đức khoan dung đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người khác, vì bà hiểu Kinh Thánh một cách quá cứng nhắc, gò bó theo từng chữ từng câu, và luôn có thái độ khinh bỉ những người nào vi phạm những lời răn dạy trong Kinh Thánh.
Hậu quả của thái độ khắc nghiệt đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng một chứng bệnh đau hạch kéo dài không dứt, làm cho bệnh nhân bị hoại huyết quá nhiều trong lúc có kinh nguyệt. Chứng bệnh này làm cho cô không thể đi học đều đặn, mỗi tháng nằm liệt giường hết hai tuần lễ, và làm cho cô trở nên nhút nhát, thích sống cô đơn và luôn tránh xa các bạn bè đồng lứa tuổi. Những điều này có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.
Về sau những chứng bệnh kể trên đã dần dần giảm bớt. Nhờ có một thân hình đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề người mẫu ở New York và lập gia đình. Tuy nhiên, cuộc tình duyên của cô không có hạnh phúc. Vợ chồng không ý hợp tâm đầu vì người chồng thì lạnh lùng và khắc khổ còn cô thì lại khao khát sự yêu đương. Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, người chồng phải vượt biển tùng chinh. Từ đó, cô bắt đầu sống một thời kỳ độc thân, và vì không thể chịu nổi cảnh đơn chiếc buồn tẻ nên cô phải dọn vào ở trong một trại nghỉ mát.
Tại đây, cô bắt đầu uống rượu và sống một cuộc đời bê tha. Lúc đầu, cô cảm thấy men rượu có thể giúp cho cô thoát khỏi sự ám ảnh nặng nề của cơn sầu khổ. Nhưng khi đã trở nên nghiện ngập rồi, cô không thể ngưng lại được nữa; càng ngày càng uống rượu nhiều hơn và say sưa liên tục. Có khi cô uống luôn cả ngày đêm không dứt trong ba tuần liên tiếp, và ăn nằm với bất cứ người nào, lính thủy, lính tập hay phi công, tùy theo lúc cao hứng. Khi say rượu thì cô đánh mất cả mọi sự dè dặt trong hành vi, cử chỉ.
Sau cùng, sức khỏe của cô bắt đầu suy sụp dưới ảnh hưởng của chất men rượu nồng. Hai bàn tay cô bắt đầu run rẩy đến mức cô không thể ký tên vào những ngân phiếu để lãnh tiền của chồng cô gửi về. Trong những lúc tỉnh táo và đầy đủ trí khôn, cô quyết định rời khỏi trại nghỉ mát là trung tâm qui tụ hàng nửa chục căn cứ hải quân và đồn trại ở gần bên.
Những bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô đang làm thư ký với ít nhiều trách nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đã ly dị với chồng.
Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do thần kinh quá căng thẳng, mà điều này lại phát sinh từ chứng bệnh đau hạch mà ra. Chứng bệnh này lại là hậu quả trực tiếp của những hành vi phê phán quá khắc nghiệt của cô đối với người khác và sự thiếu lòng nhân từ của cô ở kiếp trước. Những sự lầm lạc yếu đuối của kẻ khác mà trước kia cô lên án một cách khắt khe, nghiệt ngã, ngày nay đã trở nên những sự lầm lạc yếu đuối của chính bản thân cô.
Khi phải nhận lãnh quả báo như thế cô mới hiểu ra được rằng sự lầm lạc tội lỗi của người đời là đáng thương, và cần phải thông cảm, giúp đỡ, tìm cách chuyển hóa họ thay vì chỉ lên án và chê bai. Những kẻ thích thú trong việc chế nhạo, chỉ trích chê bai kẻ khác rồi phải nhận lãnh cái số phận của những kẻ mà chính họ đã lên án.
Trường hợp thứ nhì là của một người đàn bà có thói kiêu căng và nhiều thành kiến trong hai kiếp trước. Trong một kiếp rất lâu xa trước đây tại Palestine, cô là vợ của một vị giáo sĩ Do Thái. Với địa vị xã hội này, cô đã tỏ ra khắc nghiệt và khinh bỉ những người thanh niên phóng đãng, tự do, vô tín ngưỡng. Thời gian trôi qua cũng không làm phai mờ hay giảm bớt lòng kiêu căng tự phụ của cô. Trong một kiếp sau đó, cô tái sinh ở Salem, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, nhưng vẫn không bỏ thói khắc nghiệt và lên án kẻ khác, mà dường như cô lại càng trở nên khó khăn nghiệt ngã hơn!
Cuộc soi kiếp cho biết rằng cô đã gặp phải rất nhiều người khó tính trong kiếp hiện tại. Những người này hết sức khắt khe, soi mói và sẵn sàng lên án kẻ khác. Trước kia cô đã gây nhiều đau khổ cho kẻ khác bởi sự khắt khe quá đáng của mình. Khi người ta nhận chìm một số người xuống nước trong vụ xử án những phù thủy, cô đứng chứng kiến và vỗ tay hoan nghênh. Khi những người khác bị trừng phạt bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng tình. Bởi vậy, vào những lúc thần kinh quá căng thẳng thì cô cũng thường nhớ lại những hình phạt đau khổ của kẻ khác mà cô đã chứng kiến trong quá khứ. Hiện thời, cô bị một chứng nội thương trong mạch máu và tủy sống, làm cho cô phải trải qua những giai đoạn đau đớn thể xác. Sự đau đớn thể xác này là điều mà cô bắt đầu chịu đựng từ năm ba mươi chín tuổi, và những cơn khủng hoảng thường tái phát nhiều lần trong suốt mười bốn năm kế đó.
Cô không lập gia đình nhưng có nhà ở một khu sang trọng tại New York. Sự kiện cô không làm nghề nghiệp gì dường như chứng tỏ rằng cô được thừa hưởng nhiều tài sản. Nhưng người ta cũng có thể cho rằng chính sự vô công rỗi nghề này là một yếu tố quan trọng gây nên những cơn khủng hoảng tinh thần của cô. Nhưng đó chỉ là một nguyên nhân xét từ bên ngoài, có tính cách nhất thời mà thôi, chứ không phải nguyên nhân sâu xa. Trong thâm tâm của người đàn bà này có một sự khắt khe nghiệt ngã đối với người khác, một sự thản nhiên lạnh lùng trước những nguyện vọng và đau khổ của đồng loại.
Sự khắc nghiệt, thiếu khoan dung của cô đã làm cho nhiều người phải thất vọng đau khổ trong những kiếp trước. Bởi vậy, thật là công bình khi cô phải tự mình trải qua những kinh nghiệm thất vọng đau đớn đó trong kiếp này.
Người ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này không chịu quả báo sớm hơn về sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ Palestine. Câu hỏi này đã được xét đến trong một phần trước đây. Khi những điều kiện nhân duyên nhất định chưa hội đủ thì cho dù đương sự đã phạm vào những hành vi, tư tưởng xấu xa cũng không nhận lãnh quả báo một cách tức thời. Nhưng chính sự đòi hỏi phải kết hợp đầy đủ các điều kiện nhân duyên mới có thể kết thành các quả báo lại là một yếu tố quan trọng giúp cho chúng ta có thể làm thay đổi, chuyển hóa những quả xấu, làm cho chúng giảm nhẹ hoặc mất đi. Phương cách để làm được điều này đã được nhắc đến. Đó là sự nỗ lực tu dưỡng tinh thần và thực hành nhiều điều thiện, giúp đỡ mọi người với một tấm lòng vị tha chân thật.
Trong kiếp sống sau đó ở Salem, người đàn bà này đã có một cơ hội để chuộc lại lỗi lầm, làm thay đổi quả báo xấu. Nếu cô có thể làm một người khoan dung độ lượng, thay đổi những tính xấu trước đây của mình, thì kết quả đến với cô về sau chắc chắn đã thay đổi theo hướng tốt hơn. Rõ ràng là cô đã có điều kiện để tùy ý chọn lựa và cải thiện tâm tính của mình. Nhưng cô đã thất bại trong sự hướng thiện đó; cô lại còn tăng thêm tánh khắc nghiệt trước đây thay vì sửa chữa, cải hối. Và vì thế chính cô đã tạo ra đầy đủ các điều kiện để quả báo chín muồi và cô phải lãnh chịu trong kiếp này.
Trong những thói xấu cùng loại với tánh hẹp hòi, thiếu khoan dung và nghiệt ngã còn có tánh hay chỉ trích người khác. Trường hợp sau đây là một thí dụ lý thú về quả báo gây nên bởi tánh hay chỉ trích.
Đó là một quân nhân hai mươi bảy tuổi, cấp bậc thiếu úy, có tánh tự ti mặc cảm và luôn luôn nghĩ rằng mình bất lực, không làm nên trò trống gì.
Chúng tôi không được biết những lý do nào đã làm trở ngại sự phát triển cá tính của anh ta trong thuở thiếu thời. Có thể rằng anh ta đã có một người cha hay người mẹ hay công kích một cách vô lý; hoặc vì anh ta có một khuôn mặt xấu xí, làm cho bè bạn trong lớp chế giễu nhạo báng. Trong cuộc soi kiếp cho anh ta, ông Cayce nói:
– Ai gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Vì anh đã chỉ trích kẻ khác một cách gay gắt và vô lý nên ngày nay anh phải bị chỉ trích lại.
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy trong kiếp trước là một nhà phê bình văn nghệ, thường có thói quen chỉ trích một cách gắt gao mọi tác phẩm mà anh ta không hài lòng, dĩ nhiên là thiếu sự khách quan và công bằng. Điều đó thường gieo sự ngờ vực hoang mang không đáng có trong lòng các tác giả, làm cho họ mất tin tưởng về năng lực sáng tác của chính họ. Ngày nay, quả báo tương ứng đã đến với anh ta, khiến anh ta tự nhiên mang lấy một tâm trạng tự ti mặc cảm mà không rõ nguyên do.
Chúng ta nhìn thấy ở đây một khía cạnh mới của luật nhân quả vô cùng phức tạp, một khía cạnh rất quan trọng về phần tinh thần, đáng để cho ta suy gẫm. Trong thực tế, những nhà phê bình chuyên môn có đủ năng lực chỉ gồm một số rất ít, nhưng trên thế giới hiện nay có vô số những nhà phê bình tài tử, nghĩa là không chuyên nghiệp, không có đủ trình độ chuyên môn.
Có lẽ không một nghề nghiệp nào khác trên thế gian này lại có nhiều người hành nghề tài tử như nghề này! Các nhà phê bình không chuyên dường như rất say mê và thích thú trong việc chỉ trích người khác, bất kể những điều họ nói ra có dựa trên lập luận chắc chắn và khách quan hay không, và cũng bất kể rằng những nạn nhân của họ sẽ phải chịu đựng những gì do sự phê phán bừa bãi không chuẩn xác của họ!
Đây là một nghề này không cần bỏ vốn và thật dễ làm! Ngoài ra, nó còn là một kiểu tiêu khiển thú vị của người đời, một trò chơi mà người ta có thể tham gia ngay trên đường phố hoặc trong quán cà phê, suốt cả năm này qua tháng nọ mà chỉ cần dùng có một công cụ duy nhất là cái lưỡi sắc bén! Chỉ cần hai hay ba người tụ họp lại là trò chơi phê bình, chỉ trích này đã có thể bắt đầu một cách thoải mái, và nạn nhân có thể là bất cứ ai trong những người quen biết của các “nhà phê bình” này!
Mặc dù sự chỉ trích là một trò tiêu khiển không tốn kém, nhưng nó có thể buộc người ta phải trả một cái giá đắt về sau. Theo những gì mà thần nhãn của ông Cayce nhìn thấy trong sự tác động của luật nhân quả trải qua dòng thời gian vô tận, ông thường đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rõ ràng cho những ai say mê theo tật xấu này.
Thí dụ sau đây, trong hàng trăm những thí dụ khác, là một bằng chứng hiển nhiên để ta suy gẫm. Hồ sơ ghi lại lời ông Cayce như sau:
– Tôi thấy rõ người này thường tỏ ra quá nghiêm khắc trong sự chỉ trích kẻ khác. Phải dừng bớt lại, vì những gì mà ta chỉ trích kẻ khác không xuất phát từ lòng chân thật muốn xây dựng, giúp đỡ người ấy, mà chỉ để thỏa mãn sự tự tôn, kiêu ngạo của bản thân mình, sẽ mang đến cho ta những quả báo xấu dưới một hình thức tương ứng nào đó.
Đó là một lời tuyên bố rõ ràng về luật nhân quả. Theo đó, một nguyên nhân gây ra những khổ đau về mặt tâm lý cho người khác sẽ mang đến một hậu quả xấu với trạng thái tâm lý tương ứng. Điều này nhắc chúng ta nhớ lại một lời răn dạy trong Kinh Thánh. Đức Jesus có dạy rằng:
– Ta nói cho các ngươi biết, mỗi lời nói vô ích mà con người thốt ra, họ sẽ phải trả lời trong ngày phán xét cuối cùng.
Và kế đó là những lời răn:
– Không phải những gì chui vào lỗ miệng của một người làm cho người ấy bị ô nhiễm, nhơ bợn, mà chính là những gì từ trong lỗ miệng của người ấy chui ra!
– Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn bị kẻ khác lên án. Vì ngươi lên án kẻ khác như thế nào, thì đến lượt ngươi cũng sẽ bị lên án như thế đó!
Những lời răn trên đây, đối chiếu với luật nhân quả mà chúng ta đã thấy có một ý nghĩa rất phù hợp và cũng vô cùng hợp lý trên phương diện thực tế, khiến người ta không thể xem thường.
Về những trường hợp kể trên, chúng ta nên nhớ rằng chính cái động cơ thúc đẩy và mục đích của mỗi hành động mới là cái sức mạnh chuyển vận luật nhân quả. Không phải nghề phê bình văn nghệ làm cho người thanh niên kia bị sa đọa, mà chính cái thái độ thiếu khách quan của anh ta và sự hoang mang ngờ vực mà anh ta đã gieo trong lòng kẻ khác về tài năng của họ, chỉ vì những lời phê phán một cách cẩu thả, bừa bãi.
Người ta thấy có một sự tương tự như khi người lính La Mã ngược đãi những tín đồ đạo Gia Tô, đã kể ở chương 5. Nghiệp quả của anh ta gây ra không phải là vì anh ta thi hành nhiệm vụ của người một lính, mà chính vì thái độ tàn ác của anh ta đối với những người không đủ sức tự vệ đặt dưới quyền sinh sát của anh ta.
Ở đây cũng như trong mọi trường hợp khác, chính cái thái độ tinh thần đứng sau mỗi hành động mới là cái nguyên động lực tạo nên nghiệp quả. Trước đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc tài chuyên chế có nguyên nhân xuất phát từ những kinh nghiệm chỉ huy trong kiếp trước. Khả năng lãnh đạo là một đức tính tốt, nhưng nó rất dễ biến đổi thành thói xấu là chuyên chế độc tài.
Trong lịch sử, ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền thế trong tay thường lạm dụng quyền hành để thỏa mãn những tham vọng riêng của mình. Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn và quả báo gây ra do những hành động đó đều được thuật lại rất nhiều trong những tập hồ sơ của ông Cayce. Thí dụ sau đây là trường hợp của một người có quyền thế trong thời kỳ các vụ án phù thủy ở Salem.
Người này là một trong những viên chức có trách nhiệm trừng trị và khủng bố những người đàn bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên, trong khi thừa hành chức vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để giữ gìn thuần phong mỹ tục và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả này lại lạm dụng quyền hành của mình để thỏa mãn điều sắc dục. Những người phụ nữ bị giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y!
Những tập hồ sơ cho biết rằng kẻ đạo đức giả ấy đã đầu thai trở lại kiếp này. Hiện nay anh ta là một thiếu niên mười một tuổi, con của một người đàn bà nghèo khổ, bị chồng bỏ rơi. Anh ta thường bị chứng động kinh rất dữ dội. Trong lúc soi kiếp, anh ta đã bị bại liệt hết nửa người bên trái và câm không nói được. Anh ta không thể tự mình thay y phục hoặc ăn uống hay đi lại, tiểu tiện, nên lúc nào cũng phải có người dìu dắt. Hai vai của anh ta đã còng, và sau một cơn động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, mỗi lần cách nhau khoảng nửa giờ, anh ta không thể giữ vững đầu mình nằm ngay ngắn trên cổ được nữa, và không thể ngồi dậy được nếu không có người nâng đỡ.
Theo ông Cayce, bệnh động kinh thường là quả báo của sự hoang dâm vô độ. Dầu sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một yếu tố quan trọng. Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ anh ta dường như là một sự đảo lộn địa vị giàu sang quyền thế của anh ta trong kiếp trước. Chứng động kinh là hậu quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi anh ta lạm dụng quyền hành để thỏa mãn thú tính.
Trường hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô ở La Mã. Có một người tên Romus, là quân nhân trong đạo binh La Mã. Ngoài số tiền lương tháng không nhỏ, dựa vào cấp bậc khá cao của mình anh ta đã dùng thế lực để kiếm được những món tiền khổng lồ.
Cuộc soi kiếp không nói rõ anh ta đã dùng những phương cách nào, không biết là anh ta đã biển thủ công quỹ hay dọa nạt kẻ khác để làm tiền; nhưng nói chung là anh ta đã dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được rất nhiều của cải vật chất. Tuy vậy, anh ta phải chịu mất mát nhiều về phương diện tâm linh.
Trong kiếp hiện tại, Romus bị nhiều đau khổ, sự nghèo đói, lầm than, không nhà cửa luôn bám theo anh ta suốt đời. Nghề thợ may không đủ sinh lợi để nuôi một vợ và năm con, anh ta phải nhờ vào sự giúp đỡ của cha mẹ mới có thể sống qua ngày một cách tạm bợ và bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn.
Trong trường hợp này cũng vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đã phải chịu những quả báo tương ứng với hành vi xấu của mình trong quá khứ. Tình hình tài chánh tuyệt vọng của anh ta phản ảnh những nỗi lầm than khốn khổ mà anh ta đã gây ra cho kẻ khác trong kiếp trước.
Dưới đây là một trường hợp khác về sự lạm dụng quyền hành, cũng rất đáng cho ta ghi nhớ. Một người đàn bà thuộc giai cấp trưởng giả thời Cách mạng Pháp, đã tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp quí tộc. Với tấm lòng thành thật tranh đấu cho lý tưởng, bà đã thực hiện một sự tiến bộ lớn về đường tâm linh. Nhưng sau cuộc Cách mạng, khi dịp may đưa bà đạt tới một địa vị quan trọng trong chính phủ, bà liền trở nên độc tài và lạm dụng quyền thế không thua gì những người mà bà đã tranh đấu chống lại trước kia. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói:
– Hậu quả đưa đến là trong kiếp hiện tại, người này phải chịu dưới quyền sai khiến của kẻ khác, tương ứng với sự độc tài và hách dịch trước kia.
Hiện thời, người đàn bà này sống một cuộc đời rất khó khăn. Vào lúc soi kiếp, bà đã bốn mươi tuổi, góa chồng mười năm và có một đứa con gái. Bà phải chiến đấu với nghịch cảnh để tự mưu sinh và nuôi con. Bà đã tìm được việc làm trong một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chính phủ trong một thời gian, nhưng tình trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu nguồn vui sống đã làm cho bà tuyệt vọng và chán nản. Tình trạng này không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, mà đó là hậu quả chính xác của những sự đè nén áp bức mà bà đã gây ra cho kẻ khác khi lạm dụng quyền hành trong tay.
Xét qua bề ngoài hiện nay thì bà là nạn nhân của một tình trạng kinh tế khủng hoảng và một số phận hẩm hiu; nhưng xét về luật nhân quả thì bà chỉ là nạn nhân của chính mình.
Những trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một tiêu chuẩn quan trọng để tìm hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời cùng những nỗi đau khổ của họ, và tìm ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào quả báo trong hiện tại.
Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp nói rằng: “Số mạng chính là hạnh kiểm”, ông ta đã nêu ra một mối quan hệ hoàn toàn chính xác theo cả hai chiều. Vì những trường hợp đã xét qua như trên dường như cho thấy rằng cái gọi là “số mạng” của một con người hiện nay chính là phản ảnh hạnh kiểm của người ấy trong quá khứ. Và ngược lại, hạnh kiểm trong hiện tại sẽ quyết định việc số phận một người trong tương lai có tốt đẹp hay không.
Đến đây, một vấn đề quan trọng được nêu ra, một vấn đề mà không ít người khi học hỏi nghiên cứu và suy gẫm về thuyết nhân quả thường nêu ra. Nếu như sự nghèo khổ là những quả báo xứng đáng dành cho những kẻ trước đây hung dữ, độc ác, bất công, thì tại sao ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công việc cứu tế xã hội để làm gì? Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp những kẻ bần cùng khốn khó chính là ngăn trở những tác động động của luật nhân quả?
Chúng ta nên hiểu rằng, trong thuyết nhân quả thì nhân và quả không phải là hai phần hoàn toàn tách biệt nhau. Ngược lại, chúng luôn gắn bó với nhau một cách chặt chẽ như một yếu tố duy nhất. Những gì ta nhìn thấy là quả báo của một người thì từ một góc độ khác cũng chính là cái nhân để tạo ra một quả báo khác. Vì thế, một thái độ nhắm mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xã hội, những khó khăn khốn khổ của người khác, cho dù người đó là ai, thì tự thân nó đã phải bị xem là một hành vi không tốt đẹp và chắc chắn phải chiêu cảm một quả báo không tốt đẹp.
Mặt khác, tuy một người đã có những hành vi không tốt dẫn đến phải lãnh chịu một quả báo không tốt, nhưng sự giúp đỡ người ấy hoàn toàn không có nghĩa là tán thành những hành vi không tốt của người ấy trước đây, mà chính là một phương cách tích cực nhất để giúp người ấy nhận ra sự không tốt của mình và ăn năn hối lỗi. Vì thế, đây là cách tốt nhất để chuyển hóa những khuynh hướng xấu thành những khuynh hướng tốt. Tương tự như khi ta đối xử khoan hồng và tốt đẹp với những tù nhân trong các trại giam, đó không phải là ta tán thành với những tội lỗi trước đây của họ, mà là chứng tỏ cho họ thấy lòng tốt thực sự của con người là như thế nào. Chính điều này mới có công năng chuyển hóa họ trở thành người tốt, chứ không phải chỉ riêng sự trừng phạt có thể làm được như vậy.
Thuyết nhân quả khi được nhận hiểu một cách đúng đắn sẽ không thể dùng để bào chữa cho những hành vi của kẻ thiếu đạo đức, dửng dưng trước sự khốn khó của đồng loại. Nền tảng của thuyết nhân quả trước hết là chú trọng về mặt tinh thần, vì tiêu chuẩn tự nhiên của một hành vi được gọi là hiền thiện tốt lành chính là khi nó giúp chuyển hóa tinh thần con người hướng đến sự toàn thiện.
Nhưng thuyết nhân quả cũng có ý nghĩa tích cực về mặt xã hội, bởi vì mục đích tối nhất của sự hoàn thiện tinh thần cũng chính là tình thương; và tình thương chính là cái mãnh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp chướng và quả báo xấu xa. Ý nghĩa tích cực của luật nhân quả nằm ở chỗ tình thương bao giờ cũng là nhân tố tích cực và thiết yếu nhất trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, cho dù đó là một xã hội cổ sơ hay hiện đại, là nằm ở phương Đông hay phương Tây.
Luật nhân quả luôn khách quan và công bằng tuyệt đối, cũng ví như mực nước luôn giữ sự cân bằng trong các bình chứa. Dầu cho con người gặp phải hoàn cảnh nào, sống trong địa phương nào và dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ, đó chỉ là những điều kiện bên ngoài làm bối cảnh cho luật nhân quả biểu lộ những tác động của nó mà thôi. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi người luôn có những cơ hội và khả năng để tự sửa mình và vươn lên hoàn thiện, sửa chữa những khuyết điểm và lỗi lầm đã qua. Xét từ khía cạnh đó thì việc tin nhận luật nhân quả luôn mang đến cho chúng ta một tín hiệu lạc quan đáng mừng giữa cuộc đời mênh mông đầy dẫy khổ đau này.
Chương 12
Nguyên Nhân Của Những Trạng Tâm Lý Lạ Lùng
Ngày nay, nhiều người đã quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh từ tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng bác sĩ Freud đã khám phá ra khái niệm về tiềm thức trong khi ông theo đuổi những cuộc nghiên cứu về giấc ngủ thôi miên.
Vì những người ngủ mê trong giấc thôi miên có thể nhớ lại những sự việc xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn quên hẳn trong lúc bình thường, nên ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng thái tiềm thức là một kho ký ức lưu giữ những ấn tượng đã qua mà người ta không thể nhớ lại bằng bất cứ cách nào khác.
Về sau, ông Freud không dùng khoa thôi miên như một kỹ thuật chữa bệnh nữa, vì trong nhiều trường hợp nó không được hoàn mỹ. Nhưng ông vẫn tiếp tục thí nghiệm những phương pháp khác để thám hiểm vực sâu thẳm của tiềm thức con người. Tuy thế, người ta cũng xem khoa thôi miên như là nguồn gốc của khoa Phân tâm học (Psychanalyse) do ông khởi xướng.
Trong lãnh vực tâm lý theo thuyết luân hồi, khoa thôi miên có thể có một vai trò tương tự. Thần nhãn của ông Cayce dường như cho thấy rằng một người trong giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của người khác. Một sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như người ấy cũng có thể nhìn thấy và sống lại những tiền kiếp của chính mình.
Những kinh nghiệm lùi về quá khứ trong trạng thái thôi miên cho thấy rằng trong tiềm thức của một người có sự lưu giữ ký ức của tất cả sự việc đã từng xảy ra trong quá khứ. Khi một người trong trạng thái thôi miên được dẫn dụ lùi về quá khứ đến năm lên mười tuổi và được yêu cầu viết tên mình thì anh ta sẽ viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu vào năm lên mười. Khi người này lùi về đến năm sáu tuổi, anh ta sẽ viết với tuồng chữ còn non nớt hơn nữa; và khi anh ta lùi về đến năm lên ba, anh ta chỉ có thể cầm viết chì vẽ nguệch ngoạc những nét không có ý nghĩa gì cả!
Hiện tượng lùi về quá khứ trong trạng thái thôi miên như vừa nói trên thường được thí nghiệm trong những lớp giảng về khoa tâm lý ở các trường đại học, và những sinh viên tâm lý học đã khá quen thuộc với hiện tượng ấy. Nhà bác học Pháp De Rochas vào thế kỷ 19 đã tuyên bố rằng với kỹ thuật lùi về dĩ vãng như trên, ông có thể nhớ lại những kỷ niệm đã qua trong quá khứ. Quyển sách của ông có nhan đề “Những kiếp sống liên tục” (Les Vies Successives) không được xem như một tác phẩm khoa học, nhưng có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh như một công trình tiền phong trên địa hạt tâm lý về thuyết luân hồi.
Những trạng thái tâm lý lạ lùng được xem xét bằng hiện tượng thần nhãn của ông Cayce giải thích tính chất của ký ức và tiềm thức, và có vẻ như xác nhận rằng tiềm thức con người thật ra còn thâm sâu hơn những gì mà các nhà phân tâm học hiện nay có thể hiểu được.
Một trong những trạng thái tâm lý lạ lùng nhất là sự sợ hãi. Những nhà phân tâm học định nghĩa điều này như là một “sự sợ hãi quá độ” mà nguồn gốc là do nhiều nguyên nhân phức tạp gây nên. Sự sợ hãi khác thường này làm cho con người sinh lòng thù nghịch, gây hấn, hoặc cảm thấy mình có tội lỗi rất nặng nề. Những cảm xúc ẩn tàng này về sau biểu lộ dưới hình thức một sự sợ hãi vô lý và bất thường đối với một vài sự vật ở ngoại cảnh, thí dụ như sợ những gian phòng kín, sợ trèo cao, sợ mèo hay sợ chuột, sợ giông mưa, sấm sét, sợ nước v.v…
Có nhiều trường hợp, những sự sợ hãi đó đã được truy nguyên từ một việc xảy ra trong kiếp trước, làm cho người ấy bị đau khổ hay thiệt mạng.
Một thí dụ lý thú là trường hợp của một người phụ nữ từ thuở thiếu thời đã sợ những gian phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ ngồi gần chỗ cửa ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông người, cô bước xuống để đợi chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè, dạo chơi ở miền núi, cô rất sợ chui vào những hang động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bề khép kín, không nhìn thấy lối ra.
Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái độ lạ lùng này, vì không ai có thể nhớ lại thuở nhỏ đã xảy ra việc gì làm cho cô có sự sợ sệt như vậy. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước cô từng chui vào một cái hang, thình lình hang bị sụp lở, đè bẹp cô dưới đống đất đá và cô phải chết ngộp. Ký ức về cái chết rùng rợn này ngày nay vẫn còn in sâu trong tiềm thức của cô.
Một thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ có hai điều kinh sợ là sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhất là những loài thú nhà. Cô nổi cơn hoảng sợ mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình, hay khi thấy ai sử dụng dao bén. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết là trong một kiếp trước ở Ba Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm trong lúc chạy loạn.
Còn việc sợ thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia đình người nào cũng có nuôi chó hay nuôi mèo. Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy con chó hay con mèo thì giật mình kinh sợ như người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô không khi nào mặc áo choàng bằng da thú, hoặc có cổ áo may bằng lông thú.
Những nhà tâm lý học có thể tìm căn nguyên sự sợ sệt của cô trong những sự giao tế với người trong gia đình, thí dụ như lòng ganh ghét đố kỵ đối với người anh ưa nuôi thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu lộ lòng thù nghịch của cô. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp đã truy nguyên sự sợ sệt này từ một kiếp trước ở châu Atlantide, khi đó cô đã trải qua một kinh nghiệm khủng khiếp về những loài vật có hình thù ghê rợn.
Cuộc soi kiếp cũng giải thích nhiều tâm trạng sợ hãi lạ lùng khác và truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ hãi bóng tối của một người nọ được giải thích rằng trong kiếp trước anh ta là một tù chính trị dưới thời vua Louis XVI và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ xác trong ngục tối. Một người khác sợ dao bén; đến lúc truy nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước anh ta đã trải qua kinh nghiệm rùng rợn trong một phòng tra tấn ở Pháp, và đã bị tra khảo bằng những thứ hình cụ khủng khiếp nhất.
Một người khác có những cơn hoảng sợ bất thần, dường như luôn cảm thấy rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một kiếp trước, vào thời kỳ một phần châu Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy biển. Trong khi đó anh ta đang ngồi một mình trên một ngọn đồi cao để xem sách, thình lình cơn động đất làm rung chuyển trọn cả vùng chung quanh như trời long đất lở và anh ta nhìn thấy nước biển dâng lên chung quanh ngọn đồi của anh ta.
Một người đàn bà kia sợ thú dữ một cách lạ thường. Nguyên nhân được biết là từ một kiếp trước ở La Mã, chồng bà có tội và bị buộc phải đấu sức với thú dữ trong đấu trường. Bà đã phải chứng kiến cảnh thú dữ xé xác chồng sau khi vật chết ông.
Hai người kia sợ nước một cách rất vô lý. Truy nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước họ đi tắm sông bị dòng nước xoáy cuốn đi và chết đuối. Một người nữa cũng rất sợ nước, được biết rằng trạng thái sợ hãi này là do trong tiền kiếp vào thời đế quốc La Mã đã bị đắm tàu chết đuối trong một cơn bão giữa biển.
Khi chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan điểm tâm lý thông thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những thí dụ trên đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách tìm ra một nguyên nhân trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong phòng kín, có thể đã bị nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng ngày nay cô đã quên mất việc đó.
Do sự khêu gợi trong trạng thái thôi miên, người ta có thể đào xới việc ấy trong ký ức đã lãng quên từ lâu và nhà tâm lý học có thể căn cứ trên các yếu tố đó mà hiểu được những vấn đề xúc động thường gây nên các chứng rối loạn thần kinh.
Nhưng nhiều người đã có những kinh nghiệm cùng loại như trên, vì sao lại không có sự sợ hãi quá đáng một cách vô lý như vậy? Và tại sao có những người lại có sự thụ cảm quá đặc biệt so với những người khác? Nếu tất cả những người đã từng trải qua những cơn xúc động tình cảm đều sợ ngồi trong phòng kín, thì trên thế gian này những người như thế có lẽ sẽ nhiều đến nỗi người ta phải đóng cửa tất cả các phòng điện thoại công cộng, buồng ngủ, những gian phòng độc chiếc, và vài loại hộp đêm, như là những nơi đe dọa sự thăng bằng của tâm hồn, trí não và sức khỏe công cộng!
Theo tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như sau: Sự kiện một đứa trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình trạng xúc động tâm lý nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh tạo ra trong kiếp này chỉ là phương tiện làm khơi dậy cái ấn tượng kinh khủng đã bị vùi lấp trong ký ức.
Theo thuyết nhân quả chúng ta thấy rằng tiềm thức ví như một kho chứa sâu thẳm, thực sự sâu hơn những gì người ta nhận biết trong trạng thái bình thường.
Một vài nhà tâm lý học, đặc biệt là Carl Jung, tin rằng những lớp sâu thẳm trong tiềm thức cần được xem như những nguyên nhân sâu kín để giải thích những trạng thái tâm lý khác thường mà người ta không thể giải thích bằng cách nào khác.
Theo quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những ký ức tiềm tàng đột khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm đã trải qua trong tiền kiếp.
Tất cả những sự sợ hãi, thù ghét, thương yêu và những tình cảm trong vô thức của một người đều là thành phần trong sản nghiệp tinh thần mà người ấy tự để lại cho mình, chẳng khác nào người ta tích lũy của cải hôm nay để dùng trong một ngày về sau.
Con người văn minh tân tiến hôm nay đã từng là con người dã man mọi rợ trải qua nhiều kiếp trong dĩ vãng, và vì thế, thật là một điều tự nhiên nếu thấy rằng vẫn còn một vài phần thú tính vẫn còn tồn tại trong con người. Trong cái dĩ vãng xa xăm đó, chính con người đã từng trải qua những sợ hãi khủng khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của cuộc sinh tồn. Vậy cũng là điều tự nhiên nếu như ngày nay thỉnh thoảng một con người vẫn cảm thấy những cơn sợ hãi bất thường, vô lý và những nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ.
Khi một người đã từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà người ấy tiếp xúc trong quá khứ, thì lẽ tự nhiên là ngày nay người ấy cũng cảm thấy đối với chính những người đó, đã cùng đầu thai lại trong kiếp này, những mối thiện cảm, thương yêu, hay thù hận, ghét bỏ một cách vô lý và không thể giải thích được lý do.
Những ký ức thuộc về tiền kiếp có thể biểu lộ trong kiếp này bằng những dấu hiệu khác hơn là những sự sợ hãi hay những trạng thái tâm lý khác thường.
Ông Cayce đã căn cứ vào thuyết luân hồi để giải thích hiện tượng về những giấc mộng tái diễn nhiều lần. Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này là của một người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây:
– Tại sao lúc nhỏ tôi thường nằm mộng thấy cảnh tận thế với mây đen bao phủ và hủy diệt toàn cõi thế gian?
Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời bà ấy rằng, trong một kiếp trước ở châu Atlantide, bà ấy là một giáo sĩ kiêm y sĩ, và đã chứng kiến trận thiên tai kinh khủng nhất làm chôn vùi cả châu này dưới lòng biển sâu. Ấn tượng rùng rợn đó vẫn còn in sâu trong tâm hồn bà đến nỗi nó thường xuất hiện trong những giấc ngủ.
Một trường hợp lý thú khác là của một bé gái bốn tuổi thường làm cho mẹ lo âu vì mỗi đêm đều giật mình thức giấc, khóc la bài hãi một cách vô cùng sợ sệt. Em bé này có sức khỏe tốt, không bệnh tật gì cả. Mẹ em vì lo lắng nên viết thư cho ông Cayce để xin ông giải thích về trạng thái kỳ lạ của em.
Cuộc soi kiếp em bé này cho biết rằng kiếp trước em đã chết bất đắc kỳ tử trong Thế chiến thứ hai ở Pháp. Nhưng chỉ chín tháng sau em đã đầu thai trở lại trong một gia đình ở Bắc Mỹ. Khoảng thời gian ngắn ngủi giữa hai kiếp sống không đủ để làm phai mờ những kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh trong ký ức của em và vì thế nó thường xuất hiện trong giấc ngủ.
Những trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta phải nêu ra câu hỏi về vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết luân hồi thường đưa ra lập luận này: Nếu có luân hồi, tại sao chúng ta không nhớ lại được những kiếp trước?
Điều này mới nghe qua thì dường như lạ lùng, nhưng thật ra không lạ gì nếu chúng ta xét lại rằng, đừng nói là những kiếp trước, mà ngay trong kiếp này chúng ta cũng không nhớ được hết những việc đã xảy ra từ lúc còn thơ ấu hay thuở thiếu thời. Trí nhớ của con người là một cái gì rất mong manh, tinh tế, và những sự việc trôi qua trong đời ta chẳng khác nào như nước chảy giữa dòng. Cho nên khi nói rằng ta không nhớ một việc gì, không có nghĩa là việc ấy đã không xảy ra.
Nếu chúng ta hỏi ai đó một câu đại loại như là:
– Anh đã làm gì vào 10 giờ 26 phút sáng ngày 19 tháng 4 năm…?
Chúng ta có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng người ấy không thể nào nhớ lại từng chi tiết rõ ràng như đã xảy ra vào đúng ngày hôm đó, chẳng hạn như anh ta đã mặc y phục như thế nào, nói những chuyện gì với ai .v.v… Nhưng việc anh ta không nhớ rõ các sự việc đã xảy ra không có nghĩa là anh ta đã không trải qua những giờ phút đó.
Vì thế, sự phản bác thuyết luân hồi bằng lập luận như trên không thể đứng vững. Trước hết, sự lãng quên là một hiện tượng rất thông thường và tự nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất đặc biệt là rất chóng quên phần chi tiết mà chỉ giữ lại phần đại cương của sự việc. Chẳng hạn, những người có học thức đều biết rằng 7 lần 7 là 49, hoặc bình phương của 12 là 144. Nhưng người ấy không nhớ rằng anh ta đã trải qua những giờ mệt nhọc vất vả trong lớp học hồi thuở thiếu thời để học cách làm những bài toán đó. Nhưng khả năng suy tính và sự thông hiểu toán pháp vẫn còn tồn tại trong trí óc.
Những sự hiểu biết khác của con người cũng được giải thích bằng cách đó, chẳng hạn như sự cẩn thận đề phòng khi đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ chó khi bước vào nhà người lạ, khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông hiểu, khéo léo về bất cứ một ngành nào… Việc chúng ta biết đi biết đứng chứng tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đã tập đứng, tập đi, nhưng trong một vạn người, không có đến một người nhớ rõ những sự cố gắng vất vả khó khăn đã trải qua trong thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như bây giờ!
Như vậy, sự lãng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về phần đại cương, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên phương diện luân lý, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất cả những kinh nghiệm đã trải qua trong tiền kiếp mà ngày nay đã quên mất những chi tiết.
Lý luận thứ hai mà một số người dùng để phản đối thuyết luân hồi lại càng tế nhị hơn. Họ cho rằng thật vô lý khi buộc một cá nhân phải chịu trách nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đã làm. Họ cho rằng quả báo và sự trừng phạt chỉ có ý nghĩa khi kẻ phạm tội ý thức được và nhìn nhận tội lỗi của mình.
Trả lời cho lập luận này, ta có thể căn cứ vào sự liên quan giữa cá tính và tâm thức. Tâm thức là dòng tương tục nối liền giữa các kiếp sống của một chúng sinh, không hề bị mất đi khi xác thân tan rã. Vì thế, tuy một người không thể nhớ rõ quá khứ trong tiền kiếp, nhưng điều đó không có nghĩa là họ đánh mất đi sự liên quan giữa hai kiếp sống. Chính điều này giải thích việc lưu giữ những kinh nghiệm mà một người đã tích lũy được trong các kiếp trước. Tâm thức của mỗi người luôn chứa đựng toàn bộ ký ức về tất cả những sự việc đã xảy ra, nhưng do sự si mê che lấp và bị cuốn hút theo ngoại cảnh nên ta không thể nhớ lại được, trừ phi ta áp dụng những phương pháp tu tập đặc biệt làm trong sạch và lắng đọng tâm thức thì ta mới có thể nhớ lại được những sự việc được lưu giữ trong cái kho ký ức vô tận của tâm thức.
Ngoài những thí dụ về những trạng thái sợ hãi vô lý và những giấc mộng tái diễn nhiều lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ của ông Cayce những trạng thái tâm lý kỳ lạ khác nữa.
Chẳng hạn như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong nhiều trường hợp thường được truy nguyên từ những ký ức bất thường từ kiếp trước.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết là trong nhiều trường hợp, một sự rối loạn thần kinh có thể có nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất và sẽ được chữa khỏi một cách dễ dàng bằng các phương tiện sinh lý. Chúng ta đã thấy trong chương 2 trường hợp của cô thiếu nữ được chữa khỏi bệnh loạn trí nhờ nhổ một cái răng cấm mọc ngược. Một thí dụ điển hình khác là trường hợp của một người thư ký bưu điện bỗng nhiên thay đổi tánh tình một cách khác thường, thình lình trở nên gây gỗ, buồn bực và hung bạo. Gia đình khuyên anh ta đi khám bệnh và vào bệnh viện để điều trị. Các y sĩ tuyên bố rằng anh ta bị chứng khủng hoảng thần kinh, cần phải cho nằm riêng trong một buồng kín.
Người vợ anh ta yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc khám nghiệm bằng thần nhãn. Kết quả khám nghiệm cho biết anh ta đã bị té ngã nặng từ nhiều năm về trước, chạm mạnh vào xương mông làm tổn thương tủy sống, và điều này gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thần kinh.
Ông Cayce khuyên người này điều trị bằng phương pháp nắn xương và chạy điện. Gia đình nghe theo lời. Trong sáu tuần lễ, bệnh nhân đã bình phục trở lại như thường và trở về nhà.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp loạn trí khác, cuộc khám nghiệm mô tả rằng bệnh nhân bị ám ảnh do tà khí. Theo những niềm tin truyền thống, người ta cho rằng một vài chứng bệnh loạn thần kinh có nguyên nhân là vì “ma nhập”. Trong Kinh Thánh có kể lại chuyện đấng Christ đã đuổi tà ra khỏi xác của một người điên, và những người theo đạo Gia Tô giáo đều quen thuộc với việc các vị cố đạo Gia Tô thực hành phép đuổi tà (exorcisme).
Vấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ đối với khoa tâm lý học hiện đại, và những nhà chữa bệnh thần kinh ngày nay xem đó như một điều dị đoan đã lỗi thời. Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng tâm thức con người vẫn tồn tại sau khi chết ở một dạng vô hình thì không có lý do gì mà không tin vào những sự ám ảnh, khuấy phá hay gây ảnh hưởng của một tâm thức đối với một tâm thức khác. Chính những tác động tiêu cực này đã tạo ra cho nạn nhân nhiều ảnh hưởng không tốt về thần trí, và ông Cayce gọi đó là “tà khí”.
Để chữa những bệnh tà khí, ông Cayce thường dùng phép điều trị bằng nhân điện và khuyên bệnh nhân nên kết hợp với sự cầu nguyện và tu tập pháp tham thiền quán tưởng.
Có một trường hợp người bệnh được chữa khỏi trong khoảng vài tháng, chấm dứt hẳn sự ám ảnh của những giọng nói thì thầm bên tai đã từng làm cho người này sợ hãi đến phát bệnh. Trường hợp này là do quả báo gây nên, vì trong một kiếp trước bệnh nhân này đã dùng tà thuật để ám hại kẻ khác.
Quả Báo Đối Với Hôn Nhân
Vấn đề hôn nhân là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất trong đời người. Hôn nhân là một nguồn hạnh phúc vô tận nếu nó được thành tựu một cách mỹ mãn. Nhưng nếu thất bại thì sẽ là một nguồn đau khổ rất lớn. Hôn nhân đem đến cho đời người những cực điểm về vinh nhục, sướng khổ, và giữa hai cực điểm đó, có vô số những trạng thái trung gian, hoặc vừa khổ vừa sướng, hoặc vừa vinh vừa nhục.
Về phương diện pháp lý, hôn nhân là một hợp đồng sống chung dài hạn giữa hai người khác phái. Về phương diện nhân sinh, đó là một sự phối hợp giữa nam và nữ tính, do bản năng thúc đẩy của những nhu cầu sinh lý và tình cảm.
Hội Thánh Gia Tô xem hôn nhân như một nghi thức thiêng liêng. Khoa tâm lý học xem hôn nhân như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Những kẻ nhạo đời xem hôn nhân như một cái bẫy mà chỉ những người ngu ngốc mới chui vào. Nhưng theo một định nghĩa rộng hơn căn cứ vào thuyết luân hồi thì những quan điểm kể trên đều chỉ đúng có một phần. Một nhà tâm lý học định nghĩa rằng hôn nhân là một “sự phối hợp của hai cá nhân khiếm khuyết và bất toàn” cùng góp sức với nhau để xây dựng nền hạnh phúc chung cho cả hai người. Định nghĩa này sẽ trở nên gần gũi hơn với quan điểm của nền minh triết cổ truyền nếu ta hiểu rằng việc xây dựng nền hạnh phúc cũng chính là cố gắng để tự vươn lên hoàn thiện bản thân. Theo quan điểm rộng rãi này thì hôn nhân là một cơ hội để hai tâm hồn bất toàn bổ khuyết và giúp đỡ cho nhau và cùng nhau thanh toán những món nợ nhân quả, rèn luyện những đức tính trên con đường vươn đến sự hoàn thiện về mặt tâm linh.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã nhiều lần xác nhận rằng không có một mối liên hệ quan trọng nào trong đời người mà lại do sự ngẫu nhiên tình cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng minh cho điều này một cách triệt để. Không có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ con số không, vì đó bao giờ cũng là sự nối tiếp của một câu chuyện dài đã bắt đầu từ quá khứ.
Các cuộc soi kiếp cho biết rằng, bằng cách này hay cách khác, những người kết hôn với nhau đều đã có nhân duyên trong các kiếp trước. Đó là một điều lý thú!
Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce xem vấn đề hôn nhân như một điều tự nhiên của con người, và ông thường nói:
– À! Hôn nhân là một việc tốt. Đối với mọi con người sống trên thế gian, điều đó luôn là một sinh hoạt tự nhiên.
Có người hỏi:
– Tôi có nên kết hôn trong lúc này hay không?
Ông Cayce đáp:
– Lúc nào cũng được cả, nếu anh nghĩ rằng mình đã chọn được người bạn trăm năm thích hợp. Điều đó tùy thuộc vào mục đích anh theo đuổi khi anh muốn kết hôn với người ấy.
Một gia đình ấm cúng, đó là hình ảnh của trạng thái hòa hợp hạnh phúc mà tất cả mọi người đều mong muốn. Về điều này, ông Cayce tuyên bố như sau với một người được ông soi kiếp:
– Sự thành công của anh phải là cái tổ ấm, vì trên đời không có sự thành công nào lớn hơn nữa.
Ít người được thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình. Nhưng hạnh phúc gia đình mới là sự thành công lớn nhất, và người nào xem thường điều ấy sẽ tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về sau. Vì gia đình là biểu tượng gần nhất đối với nguyện vọng sống hạnh phúc của một người và đó cũng thường là nền tảng tất yếu cho một đời sống hạnh phúc giữa thế gian. Bởi vậy, có thể nói rằng một gia đình hạnh phúc chính là cõi thiên đàng ở giữa thế gian này!
Vì gia đình là nơi người ta cùng theo đuổi một mục đích chung với sự gắn kết của một mối tình thân ái, nên nó cũng là nơi thể hiện nhiều nhất những mối tương quan tốt đẹp giữa con người với con người. Mục đích của gia đình là sự sáng tạo khi mỗi thành viên trong đó đều hợp nhất với nhau trong một lẽ sống và một lý tưởng chung. Khi ấy, gia đình sẽ là cội nguồn tạo ra những đời sống hạnh phúc cũng như mang lại niềm hạnh phúc vô biên cho mỗi một thành viên của nó.
Những quan niệm trên đây không phải mới lạ gì. Tuy nhiên, điều khác biệt là những cuộc soi kiếp trình bày những quan điểm trên theo một cách vừa tự do vừa tân tiến đối với vai trò của người phụ nữ. Điều lý thú ở đây là vấn đề nam nữ bình quyền và quyền tự do của phụ nữ trong việc tự quyết định cuộc đời mình được xem như một vấn đề đương nhiên.
Ý niệm về sự đương nhiên này được biểu hiện rõ hơn trong những cuộc soi kiếp về các trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong hai điều, đó là nghề nghiệp và hôn nhân. Thần nhãn của ông Cayce không chấp nhận quan niệm độc tài chuyên chế và xem vai trò của phụ nữ chỉ là ở trong gia đình, giới hạn trong việc chăm sóc cho chồng con.
Các cuộc khám bệnh thường đưa ra những phương pháp điều trị không theo một đường lối duy nhất. Tương tự như vậy, không hề có một phép xử thế nhất định cho tất cả mọi trường hợp về vấn đề hôn nhân.
Những nguyên tắc tâm lý và đạo đức bao giờ cũng dựa trên một nền tảng như nhau, nhưng sự biểu đạt cụ thể thành hành động luôn khác biệt nhau tùy theo từng trường hợp. Đối với một số phụ nữ, ông Cayce khuyên họ nên lập gia đình; nhưng đối với một số khác ông lại khuyên họ nên theo đuổi một nghề nghiệp. Có vài người, ông khuyên họ nên lo cho sự nghiệp trước, rồi sẽ lo việc lập gia đình sau. Với một số người khác thì ông khuyên họ nên chú trọng đồng thời cả hai việc lập gia đình và theo đuổi nghề nghiệp. Đối với những người khác nữa, ông khuyên họ hãy chọn một trong hai điều; vì họ không thể cùng lúc thành công trong cả hai lãnh vực.
Một thiếu nữ mười tám tuổi có tánh e lệ, rụt rè và nhiều bất mãn về cuộc đời, muốn biết xem cô có thể làm gì trong tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn mạnh rằng trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm một công việc từ thiện như săn sóc, giúp đỡ các trẻ em bất hạnh. Cuộc soi kiếp cho biết:
– Nếu người này tìm cách có được hạnh phúc theo con đường hôn nhân thì cô sẽ bị thất vọng đau đớn, trừ phi trước khi lấy chồng cô đã có làm những công tác trợ giúp xã hội và săn sóc trẻ em bất hạnh.
Cuộc soi kiếp nói thêm rằng, cô cũng có thể giúp việc săn sóc các em gái nhỏ trong trại mồ côi hay một tổ chức từ thiện tương tự. Một nhà tâm lý học sẽ nhìn nhận rằng lời khuyên đó rất lành mạnh, theo quan điểm thuần túy tâm lý. Dạy dỗ các thiếu niên nhi đồng là một phương tiện rất tốt để cởi mở và phát triển sớm thiên chức làm mẹ. Nhờ đó, cô gái này sẽ có được sự tự tin trước khi lập gia đình. Trong trường hợp của cô này, nếu không có đức tính ấy thì sẽ không có cơ hội xây dựng được hạnh phúc gia đình. Hôn nhân có thể sẽ hoàn toàn thất bại nếu cô ấy chọn một người bạn trăm năm không thích hợp, và sự lúng túng trong việc chăm sóc con cái vào buổi đầu có thể là nguyên nhân làm sụp đổ tất cả.
Mặt khác, cho dù cô có tìm được một người chồng thích hợp, sự thất bại vẫn có thể xảy đến nếu một trong hai người không có đủ sự hòa hợp cần thiết để đương đầu với những vấn đề do hoàn cảnh đưa đến và những căng thẳng mà cuộc sống hôn nhân tạo nên. Vì thế, trong trường hợp này thì phương pháp tốt nhất là hãy làm quen với một công tác xã hội và theo đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đình.
Trong một trường hợp khác, một thiếu nữ có nhiều năng lực được khuyên là nên lập gia đình đồng thời với việc theo đuổi một nghề nghiệp, nhưng chỉ nên kết hôn với một người hoàn toàn thích hợp với cô mà thôi. Người thiếu nữ này những kiếp trước đã từng làm nhiều công việc khác nhau và có năng khiếu đặc biệt về các ngành điêu khắc, làm đồ gốm, dệt vải cũng như năng khiếu về âm nhạc và khiêu vũ .v.v… Với một năng khiếu đa dạng và phong phú như thế, cô có đủ điều kiện cần thiết để trở thành một nhà lãnh đạo. Sau khi đã nêu rõ các điểm nêu trên, ông Cayce cho biết thêm:
– Tôi thấy rằng người này nên lập gia đình đồng thời với việc theo đuổi nghề nghiệp yêu thích, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải thích hợp cả với người chồng mà cô chọn lựa. Bởi vì nếu người chồng đó không phải là một người hoàn toàn thích hợp để có thể góp phần xây dựng vào công việc mà cô theo đuổi thì sẽ có những bất đồng ý kiến và những sự thất vọng chua cay làm tổn thương sâu sắc tâm hồn cô.
Trái lại, dưới đây là một trường hợp lý thú khác của một nữ diễn viên trẻ đẹp và tài năng. Cô này yêu một người và muốn biết xem có thể tiếp tục làm nghề diễn viên sau khi kết hôn hay không?
Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rất rõ ràng rằng:
– Không thể được! Người này có những đức tính cần thiết để thành công trên sân khấu hoặc trong gia đình; nhưng cô không thể thành công trong cả hai lãnh vực. Vậy cô hãy tự mình chọn lựa!
Xem xét tỉ mỉ những cuộc soi kiếp kể trên, ta thấy rằng những lời khuyên luôn nhằm mục đích dìu dắt đương sự hướng về việc phát triển sự hoàn thiện tâm linh. Nếu một phụ nữ muốn theo đuổi một nghề nghiệp với những lý do ích kỷ như là tiền bạc, quần áo đẹp, địa vị cao sang, quyền lực, danh vọng cá nhân .v.v… thì ông Cayce luôn thấy rõ được tâm địa ấy và sẽ khuyên cô ta nên hướng về việc lập gia đình. Lời khuyên này được đưa ra không phải vì lý do tình cảm hay theo tục lệ truyền thống về tánh cách thiêng liêng của gia đình và vai trò của người phụ nữ. Nó được dựa trên quan niệm rằng những động cơ thúc đẩy và mục đích hướng đến là những tiêu chuẩn để xét đoán mọi hành động của con người; rằng một hành vi ích kỷ bao giờ cũng bị đánh giá thấp hơn một hành động vị tha, và những trách nhiệm mà người ta phải gánh vác trong sự kết hôn và lập gia đình dễ đưa con người đến hành động vị tha hơn là những thú vui mà người ta tìm kiếm để thụ hưởng riêng trong một vài nghề nghiệp.
Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng có tài năng, nên tạo lập gia đình và tập trung vào việc chăm sóc, nuôi dạy con cái; vì đó là khuôn thước tốt nhất để giúp họ khai mở những đức tánh tâm linh còn thiếu sót, để kiềm chế bớt lòng ích kỷ, dù họ có ý thức được việc đó hay không, trong khi theo đuổi con đường sự nghiệp.
Mặt khác, một vài phụ nữ có tài năng có thể thành thật muốn đem khả năng của mình để phụng sự nhân loại. Đối với một phụ nữ thuộc về loại này thì một tổ ấm, một người chồng, một gia đình có thể là những chướng ngại cho sự phát triển tối đa những khả năng của họ. Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên họ hãy trì hoãn việc lập gia đình một thời gian hoặc nên phối hợp hôn nhân với sự nghiệp cùng một lúc.
Mục đích cao nhất đối với những người độc thân cũng như có gia đình, đều là sự phát triển hoàn thiện tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà đều có quyền chọn lựa để xây dựng một gia đình thích hợp nhất, có thể giúp họ theo đuổi sự phát triển hoàn thiện tâm linh.
Ông Cayce xem quyền tự do chọn lựa và xây dựng cuộc đời của mỗi người không chỉ là một quyền hạn trên địa hạt xã hội mà còn là một quyền tất yếu về mặt tâm linh. Nói theo danh từ triết học thì đó gọi là quyền tự do ý chí (libre arbitre), đã từng là một đầu đề tranh luận gay go sôi nổi trải qua nhiều thế kỷ.
Một trong những điểm quan trọng nhất của thuyết luân hồi là nó nhấn mạnh về sự hiện hữu của quyền tự do ý chí. Một điều lầm lạc rất thông thường của những người tin tưởng ở thuyết luân hồi và nhân quả là họ cho rằng số mạng con người đã được định sẵn từ trước. Một sự tin tưởng sai lầm như thế có những hậu quả rất tai hại về mặt tâm lý và đạo đức tâm linh, vì nó làm cho tinh thần con người trở nên yếu đuối, thụ động và làm tê liệt ý chí tiến thủ của con người. Khi một người hiểu về luật nhân quả theo cách đó, họ sẽ có một thái độ buông xuôi, thụ động vì cho rằng mọi việc đều đã được định sẵn và con người không thể thay đổi được gì. Thật ra, những người như thế được gọi là tin theo thuyết tiền định, hoàn toàn không liên quan gì đến thuyết nhân quả.
Thuyết nhân quả chỉ ra rằng mỗi một “nhân” mà chúng ta tạo ra bằng hành vi hay tư tưởng đều chắc chắn phải tạo thành “quả” trong tương lai khi kết hợp đủ các điều kiện hay các “duyên”. Như vậy, khi đã tạo nhân thì chắc chắn phải nhận quả, nhưng điều này không có nghĩa là mọi việc đều đã được định sẵn bởi các nhân trong quá khứ. Quá trình tương tác giữa các nhân, quả và duyên là một quá trình liên tục và phức tạp. Một nhân của quá khứ tạo thành một quả trong tương lai, nhưng chính cái nhân đó cũng có thể là một phần quả của một nhân khác từ trong quá khứ lâu xa hơn nữa. Hơn nữa, kết quả của một sự việc này cũng có thể làm duyên cho sự hình thành kết quả của một sự việc khác. Và trong bất cứ thời điểm nào, sự chọn lựa bằng tự do ý chí của mỗi cá nhân đều góp phần quyết định vào sự hình thành các sự việc. Đây là lý do giải thích sự đề cao vai trò quyết định của mỗi cá nhân trong việc hình thành chuỗi nhân quả phức tạp trong cuộc đời. Sự thật là phần nhiều những chi tiết của cuộc đời chúng ta đều hoàn toàn do chính chúng ta định đoạt bằng những tư tưởng và hành vi ngay trong giây phút hiện tại.
Thật ra, tất cả những sự việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan trọng như hôn nhân đến việc nhỏ mọn như ăn một cây kem chẳng hạn, đều do chính chúng ta định đoạt. Những khó khăn trắc trở đè nặng lên vai chúng ta bây giờ đều là kết quả của những lỗi lầm mà chúng ta đã gây ra trong quá khứ do sự định đoạt của chính mình, nhưng ngay trong hiện tại ta vẫn luôn có cơ hội để tích cực sửa chữa sai lầm và nhận được những kết quả tốt đẹp hơn. Những quả báo xấu dường như đến với chúng ta một cách tình cờ, bởi vì ta đã quên đi những hành động của ta trong quá khứ nên không thể thấy được sự liên quan giữa những hành động đã qua với cuộc đời chúng ta trong hiện tại. Tuy nhiên, việc quả báo xấu ấy xảy ra như thế nào, với mức độ nào thì phần lớn lại được quyết định do chính những hành vi và tư tưởng ngay trong hiện tại của chúng ta.
Như thế, nếu chúng ta hiểu đúng về luật nhân quả thì sự mâu thuẫn giữa hai vấn đề tự do ý chí và định mệnh xem như đã được giải quyết. Cái gọi là “định mệnh” thật ra chính là sự chi phối, là kết quả những hành vi trong quá khứ của chính chúng ta, và ta không có sự lựa chọn nào khác hơn là đón nhận nó. Cũng như một người đã làm xong mọi thủ tục mua hàng và bây giờ hàng hóa đang trên đường được chuyển đến. Anh ta không có lựa chọn nào khác hơn là nhận lấy số hàng hóa mà chính mình đã đặt mua. Mặc dù vậy, vì mỗi cá nhân đều có quyền tự do ý chí nên ta hoàn toàn có thể chọn lựa cách thức đón nhận những quả báo xảy đến cho ta; và quả báo ấy xảy ra như thế nào cũng có một phần do những hành vi và tư tưởng trong hiện tại của chúng ta quyết định. Tương tự như người đặt mua hàng kia tuy không thể từ chối việc nhận hàng, nhưng có thể chọn lựa cách thức giao nhận hàng hoặc sử dụng số hàng đó như thế nào.
Nói một cách khác, chúng ta được hoàn toàn tự do trong sự quyết định mọi hành vi, tư tưởng của mình, và mỗi hành vi, tư tưởng của ta đều góp phần quyết định sự việc sẽ xảy ra.
Như thế, tuy luật nhân quả quyết định những sự kiện xảy ra trong đời người, nhưng trong từng giây phút hiện tại chúng ta vẫn luôn được hoàn toàn tự do chọn lựa hành vi tư tưởng của mình để góp phần làm thay đổi mỗi sự kiện theo hướng tốt hơn hoặc xấu hơn.
Vấn đề tự do ý chí này luôn gợi sự chú ý của những người khảo cứu các tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân và nhất là những trường hợp có thắc mắc về người bạn trăm năm sau này. Các cuộc soi kiếp luôn cho biết rằng mọi cuộc hôn nhân đều do những sợi dây duyên nghiệp tạo nên, có nghĩa là những người đến với nhau trong hôn nhân đều là những người quen nhau từ kiếp trước và ngày nay gặp lại nhau để cùng thanh toán những mối duyên nghiệp nợ nần giữa hai người.
Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cũng như trong tất cả mọi vấn đề khác, mỗi người luôn vẫn có quyền tự do ý chí và tự do chọn lựa. Dầu cho giữa hai người có một sợi dây duyên nghiệp tạo ra một sự hấp dẫn mãnh liệt, thì sự kết hợp của họ trong hiện tại vẫn không phải là điều không thể thay đổi. Điều đó tùy thuộc vào sự chọn lựa và quyết định của cả hai người. Hơn nữa, không phải bao giờ điều đó cũng là cần thiết hoặc đáng khuyến khích.
Dưới đây là hai cuộc vấn đáp ngắn liên quan đến nhận xét vừa nêu trên:
Hỏi: Tôi có nên kết hôn với chàng trai đang tỏ tình với tôi lúc này chăng?
Đáp: Hai người vốn có duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt hơn cô không nên kết hôn với anh ta.
Hỏi: Cuộc hôn nhân của tôi với F. S. có thể giúp cho sự phát triển chung của chúng tôi chăng?
Đáp: Có thể được, nhưng tôi thấy có nhiều người khác mà cô có thể kết hợp để cùng nhau phát triển một cách hài hòa và tốt đẹp hơn nữa. Đó là những người mà kiếp trước cô đã có tạo nghiệp duyên vào thời kỳ văn minh cổ Ai Cập. Dầu sao, sự chọn lựa là ở nơi cô. Thật ra, cô có một món nợ nghiệp duyên với F.S. cần phải trả dứt, nhưng việc kết hôn với anh ta là giải pháp kém nhất!
Khi ông Cayce ngăn cản một cuộc hôn nhân, dù là xét thấy giữa hai người có duyên nghiệp với nhau, ta có thể hiểu điều đó bằng nhiều cách. Trước hết, có thể rằng ông nhận thấy giữa những người ấy có những vấn đề khác còn quan trọng hơn sự liên hệ giữa vợ chồng. Hoặc cũng có thể ông thấy rằng một trong hai người, hoặc cả hai, chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống hôn nhân.
Những cuộc soi kiếp thường không nói rõ lý do vì sao trong mỗi trường hợp đương sự nên hay không nên đi đến hôn nhân. Dẫu cho trong những trường hợp mà hôn nhân được coi như một giải pháp tốt đẹp, ông Cayce cũng để cho đương sự tự quyết định lấy. Ông ít khi nào đưa ra một quyết định thay cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó thể hiện rõ ràng trong trường hợp dưới đây của một cặp uyên ương đến hỏi ý kiến ông về việc họ có nên kết hôn với nhau hay chăng?
Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết rằng họ đã trải qua hai lần kinh nghiệm kết hôn với nhau, một lần ở Ba Tư và một lần nữa ở Ai Cập. Đó là lý do của sự hấp dẫn mãnh liệt hiện nay thu hút hai người lại đến với nhau.
Về cuộc hôn nhân của họ, ông Cayce không nói một cách dứt khoát mà chỉ cho biết rằng:
– Nếu giữa hai người có một sự hòa hợp về lý tưởng và mục đích thì hôn nhân có thể là một kinh nghiệm tốt đẹp.
Người thiếu nữ liền hỏi ông câu này:
– Mỗi người trong chúng tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà có được hạnh phúc hơn là trường hợp chúng tôi kết hôn với nhau hay chăng?
Ông Cayce đáp:
– Nếu cô hỏi như thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra cho cô danh sách của hai mươi lăm hay ba mươi người khác. Còn đi đến hôn nhân hay không, thì đó là vấn đề mà cô hãy tự quyết định lấy!
Trong vài trường hợp, lời khuyên được đưa ra một cách dứt khoát như sau:
Hỏi: Tôi có nên lập gia đình với người đàn ông đã đính hôn với tôi chăng?
Đáp: Không nên!
Tuy nhiên, trong phần nhiều trường hợp, cuộc soi kiếp vẫn để cho đương sự được hoàn toàn tự do chọn lựa. Nhưng đồng thời, ông Cayce cũng đưa ra những tiêu chuẩn để dẫn dắt đương sự trong sự chọn lựa đó. Một người đàn ông hỏi:
– Cô M. L. có thể là người vợ hiền và thích hợp với tôi chăng?
Ông Cayce đáp:
– Điều đó phải tự ông quyết định chứ không phải tôi! Ngoài sự thích hợp với nhau về phần trí não tri thức và thể chất, còn phải xem giữa hai người có sự hòa hợp về khía cạnh tâm linh hay không? Hai người có cùng chung một lý tưởng, một mục đích hay không? Nếu không thì phải cẩn thận đấy!
Trong thí dụ sau đây, một người đàn bà hỏi rằng, trong bốn người đàn ông muốn thành hôn với cô, cô nên chọn lựa người nào? Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết:
– Điều đó tùy nơi lý tưởng mà cô đang theo đuổi. Mỗi người trong số bốn người đó đều đã có liên hệ với cô trong quá khứ, có người thì giúp đỡ nhưng có người lại làm chướng ngại cho cô. Nếu tôi khuyên cô nên tránh người nọ hoặc nên chọn người kia thì sẽ đặt cô vào một vị trí sai lầm, và cũng đặt cả những người kia vào vị trí sai lầm. Chính cô phải tự chọn lựa, và tiêu chuẩn chọn lựa phải là hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô hãy nhớ rằng, tất cả mọi người đều có quyền tự do chọn lựa.
Căn cứ vào những tài liệu kể trên, người ta có thể suy diễn ra nguyên tắc chọn lựa người bạn trăm năm của mình. Người ta có thể nói rằng phần nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của thể xác. Theo quan điểm đưa ra trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce thì sự hấp dẫn của thể xác phải đi đôi với sự hấp dẫn về phần tri thức và sự hòa hợp tinh thần. Một cuộc hôn nhân có hạnh phúc phải căn cứ trên nền tảng bao gồm đủ ba khía cạnh đó, cũng như ba cái chân vạc vững chắc. Nếu một trong ba khía cạnh đó bị thiếu sót thì cuộc hôn nhân ấy sẽ có nguy cơ không đứng vững!
Lý tưởng của một người phải tương xứng, hoặc ít nhất cũng là thuận chiều với lý tưởng của người bạn trăm năm, trên mỗi phần của ba phương diện nói trên; nếu không thì nguy cơ tan vỡ và thất bại chua cay là khó tránh khỏi.
Việc kết hôn một cách vội vàng cẩu thả, không suy nghĩ chín chắn về những điều quan trọng kể trên tức là tự chuốc lấy tai họa và mọi sự khó khăn trắc trở. Khi chúng ta cảm thấy một sự hấp dẫn mãnh liệt đối với một người khác phái, chúng ta hãy cẩn thận đề phòng. Cẩn thận tức là phải nhìn thấy xa để khỏi lầm tưởng rằng một sự hấp dẫn của thể chất và dục tình sẽ trở nên một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và không vô tình châm lửa vào cái ngòi thuốc súng của một tình trạng quả báo sắp nổ bùng!
Những Thiếu Phụ Cô Đơn
Khi người ta xét vấn đề hôn nhân theo quan điểm luân hồi và nhân quả, nghiệp duyên từ những kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi tự hỏi rằng tại sao lại có những người sống cô đơn không lập gia đình? Có nhiều phụ nữ, mặc dầu có một dung nhan khá đẹp và tính nết bình thường, nhưng cơ hội kết hôn dường như không bao giờ đến với họ!
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã giải thích vấn đề này như thế nào? Có một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như sau:
“Hôn nhân ví như một thành trì bị bao vây, những người ở ngoài thì cố sức vào, còn những người ở trong thì muốn chạy ra!”
Câu này dường như đã nói lên một sự thật quá phũ phàng. Hôn nhân đã làm cho nhiều người đau khổ đến nỗi người ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn còn rất nhiều kẻ khác muốn lọt vào vòng, không màng đến những đe dọa của nó đối với sự yên tĩnh của tâm hồn, và chỉ nhìn thấy những điều vui sướng mà nó hứa hẹn!
Mặc dầu người ta đã biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ như thế, nhưng những người độc thân nói chung thường cảm thấy rằng họ thiếu mất một cái gì quí báu, và cảm thấy đời sống khô khan, vô vị vì họ đã bỏ lỡ một cuộc đời!
Điều tất nhiên là trong tình trạng đó, yếu tố dục tình đóng một vai trò quan trọng. Sống độc thân, ít nhất là ở những xứ gọi là “văn minh”, có nghĩa là hoàn toàn tiết dục, hay ít nhất cũng là hạn chế hoạt động tình dục, dù đó là phụ nữ hay đàn ông.
Ở xã hội Tây phương ngày nay, việc sống độc thân, nhất là đối với phụ nữ, được xem là một sự “bất hạnh”. Những trường hợp kể ra dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, vì trong các tập hồ sơ Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông, và những trường hợp đau khổ của họ cũng bộc lộ rõ rệt hơn. Cô đơn! Có một cái gì tẻ lạnh ở trong danh từ này, một cái gì buồn thảm không thể nói ra cho xiết. Cũng vậy, khi một phụ nữ thốt ra câu “Tôi sống độc thân” thì có lẽ đó là câu nói buồn thảm nhất về hoàn cảnh hiện thời của cô ta.
Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để giải đáp cho vấn đề này thì sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn, tẻ lạnh nhất của đời người. Dưới đây là trường hợp của một người phụ nữ luôn cảm thấy khổ sở vì phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc.
Cô là một người Na Uy rất đẹp và duyên dáng, làm thư ký ở New York. Cô đã trải qua hai đời chồng. Người chồng trước qua đời sau khi thành hôn một thời gian rất ngắn. Sau đó cô tái giá với một người khác lớn tuổi hơn cô nhiều, nhưng cuộc hôn nhân này lại không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đã đến rất mau. Cô không có con, tất cả những người thân trong gia đình đều đã qua đời và cô chỉ còn trơ trọi có một mình. Công việc của một thư ký giúp cô có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhưng đó chỉ là những giao tiếp bề ngoài. Cô ước mong tái giá lần nữa, nhưng dịp may mãi không thấy đến và cho đến nay cô vẫn sống cô đơn.
Khi yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của cô biểu lộ một tâm sự buồn thảm và đau thương:
– Tại sao tôi lại bị cô đơn tẻ lạnh như thế này? Có một lý do đặc biệt nào khiến tôi không thể tìm thấy một bạn tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại thất bại như thế này?
Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết rằng tình trạng cô độc này có một nguyên nhân rất sâu xa. Hai kiếp về trước ở Na Uy, cô đã làm một việc lầm lạc tai hại gây nên tình trạng bi đát hiện nay. Đó là cô đã tự tử trong một cơn thất chí! Trong kiếp đó, cô là mẹ của hai đứa con nhỏ và chồng cô vì một lý do nào đó đã bị trục xuất khỏi làng. Sau khi sinh đứa con thứ hai, cô quá thất vọng và nhảy xuống vực sâu tự tử. Ông Cayce nói:
– Bởi đó mà trong kiếp này cô phải chịu những lúc quạnh hiu, sầu thảm, hầu như không thể chịu nổi!
Quả báo trong trường hợp này thật là rõ rệt. Trong một lúc thất vọng, người đàn bà này đã tự tử, làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái tình trìu mến săn sóc mà họ cần nơi người vợ và người mẹ. Cô đã không đếm xỉa đến bổn phận gia đình và trách nhiệm đối với chồng con, và bởi đó cô tạo nên cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này.
Chỉ khi nào người ta bị thiếu thốn tình thương thì người ta mới biết quí trọng cái giá trị của nó. Đó là một trường hợp đáng cho ta suy gẫm.
Điều này cho thấy là mỗi người chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, kể cả việc tự mình chấm dứt sự sống của mình, vì điều đó gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho người khác. Mọi cử chỉ lãnh đạm, thản nhiên, thờ ơ hay khinh bạc, mọi sự lạm dụng và những hành vi trái đạo trong đời sống hằng ngày đều phải nhận chịu những quả báo tương ứng.
Trường hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường hợp trên, tuy rằng với những chi tiết khác hẳn. Đó là một phụ nữ người Anh dạy học ở một trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đình. Cha mẹ đã qua đời từ khi cô còn nhỏ; cô được các bà dì nuôi nấng trong một bầu không khí lãnh đạm, khô khan và nghiêm khắc, kết quả là biến cô thành một con người không thể hòa hợp với những người đồng lứa tuổi. Suốt đời cô luôn cảm thấy cô độc đơn chiếc, cách biệt với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm hồn khép chặt đã biểu lộ nơi cô.
Cô đã trải qua một cuộc tình duyên, nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất, và mối tình này đã chấm dứt khi sự khác biệt về tâm tính với người yêu của cô ngày càng bộc lộ rõ rệt. Từ đó trở đi, cô cảm thấy cuộc đời dường như trống rỗng và vô vị. Cô làm việc sốt sắng và thành công về phương diện nghề nghiệp; thông minh lanh lợi và biết giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc cô đắm chìm trong một cơn thất vọng sầu thảm kéo dài nhiều tuần lễ và khó nguôi.
Trong những cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể tưởng tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có thể bị những cơn thất chí buồn bực sâu xa đến như thế!
Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong bốn kiếp về trước cô sống ở Ba Tư và đã tự tử khi những bộ lạc Ả Rập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là con gái của người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị quốc vương Ả Rập, cùng lúc với nhiều người khác. Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp cho một viên phó tướng Ả Rập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu vì thất chí nên tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người săn sóc giữa bọn tướng giặc, cho đến ngày kia có một vị giáo sĩ đi hành hương thấy vậy động lòng trắc ẩn và đem em bé ấy về nuôi cho đến khi trưởng thành.
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người mẹ đã tự tử chỉ vì không thể chịu khuất phục theo ý muốn của người khác; và chỉ vì muốn thỏa mãn lòng tự kiêu của mình chứ không phải vì lý do tự vệ để bảo tồn trinh tiết, hay giữ gìn lý tưởng.
Cuộc soi kiếp không cho biết thêm chi tiết nào khác, nhưng người ta có thể hiểu rằng người đàn bà này có tâm địa kiêu căng, ngã mạn, tự tôn, và thà rằng cô tự hủy mình chớ không chịu bị đè nén, khuất phục, mặc dầu cô còn có một trách nhiệm với đứa con gái nhỏ mới sinh ra. Xét về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những cử chỉ tự do và hiên ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ thói tự kiêu của cô trong kiếp sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô với phái nam trong kiếp sống hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự cứng cỏi ương ngạnh của cô làm cho những người đàn ông đều tránh xa và không muốn làm thân với cô.
Điều lạ lùng là trong kiếp này, cô luôn mong muốn có con. Nếu các bà dì của cô không ngăn cản thì có lẽ cô đã nuôi một đứa con nuôi từ lâu. Có một điều cô mang theo từ kiếp trước là cô thường nghĩ đến sự tự vẫn.
Từ khi có cuộc soi kiếp đưa đến những giải thích về tình trạng của cô, cô không còn nghĩ đến sự tự vẫn như một lối thoát nữa, vì hiểu rằng những gì mà cô muốn trốn tránh trong hiện tại sẽ trở lại với cô trong tương lai.
Tuy thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được cho biết rằng cô còn có thể hy vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc đã quá tuổi xuân; và trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp xúc trong đời sống hằng ngày.
Khi được hỏi rằng còn bao lâu nữa cô mới có hạnh phúc đó thì ông Cayce trả lời rằng:
– Khi nào cô tỏ ra xứng đáng thì điều đó sẽ đến.
Khi cô hỏi:
– Tại sao trong khoảng năm năm qua tôi không gặp được một người đàn ông nào cả?
Thì câu trả lời là:
– Đó là sự thử thách tâm tính và mục đích sống của cô trong kiếp sống hiện tại.
Trên đây là hai trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái bơ vơ trong kiếp trước đã gây nên quả báo cô đơn tẻ lạnh và thất vọng trong sự mong ước thành lập gia đình trong kiếp này. Trong những tập hồ sơ Cayce, còn có một trường hợp thứ ba. Đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Bà này cũng ở trong một tình trạng tương tự với những lý do giống nhau là đã tự tử trong kiếp truớc dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.
Tuy nhiên, người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp để đi đến một kết luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô đơn, độc chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước. Ông Manly Hall, tác giả quyển “Luân hồi: sự tuần hoàn cần thiết của đời người”, nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị chết vào lúc mà người ấy ham muốn sống và yêu đời nhất.
Trong các hồ sơ Cayce, không thấy có trường hợp nào xác nhận điều đó, dù rằng nghe ra thì có vẻ như rất hợp lý.
Tuy nhiên, sự cô đơn và không chồng trong kiếp hiện tại có thể có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ như trường hợp dưới đây cho ta thấy một lý do khác hẳn. Xét về trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông Oscar Wilde:
– Trong đời chỉ có hai điều khổ, điều thứ nhất là muốn mà không được; và điều thứ hai là được như ý muốn!
Câu nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng con người vì bởi vô minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Trong kho tàng cổ tích có chuyện một bà tiên cho người kia được đưa ra ba điều ước nguyện và sẽ được như ý muốn. Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng con người thường có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh chịu lấy hậu quả tai hại của sự dại dột ấy. Câu chuyện có một ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc về hai sự kiện này: Một là phần đông người đời không biết rõ họ muốn gì; và hai là sự đau khổ của con người là phần nhiều do những sự ước vọng sai lầm vì sự thiển cận và thiếu óc sáng suốt.
Trường hợp sau đây đã xảy ra từ thời kỳ ở châu Atlantide và đương sự hãy còn chịu quả báo ở kiếp này. Đó là một người đàn bà độ bốn mươi tuổi, có một thân hình nặng nề và thô kệch, nhưng điều này phần lớn là do bởi sự thiếu thể dục và sinh hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang sức; quần áo cũng rất xuề xòa, không chạy theo thời trang. Bà chọn y phục theo tiêu chuẩn tiết kiệm hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có nét mặt đều đặn và nếu được săn sóc ở mỹ viện thì cũng có thể trở thành một phụ nữ rất đẹp. Ngoài ra bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương. Trình độ văn hóa chỉ đến mức Tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và làm việc thủ công để nuôi thân.
Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lý, bà có điểm cao nhất về mặt giao tế xã hội và tôn giáo, vì những thích thú lớn nhất của đời bà là đọc các sách Thánh Kinh tôn giáo và làm việc cứu tế xã hội dưới một hình thức nào đó. Tuy vậy, bà vẫn sống một cuộc đời cô độc, đơn chiếc. Những người trong gia đình không ai cùng chia sẻ những quan niệm của bà về tôn giáo. Trong đời bà, bà không hề biết có gì gọi là hương vị ái tình hay tình yêu lãng mạn.
Nói về quan điểm tâm lý, người đàn bà này thuộc về một trường hợp rõ rệt của sự “phản ứng nam tính” (protestation masculine), nghĩa là từ chối hay phủ nhận vai trò nữ tính của mình. Sự phản ứng này biểu lộ rõ rệt trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những gì thuộc về nữ tính của bà; thí dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn đàn ông. Khoa tâm lý học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng sự giải thích này vẫn còn rất thiếu sót.
Cuộc soi kiếp bằng thần nhãn của ông Cayce đã đưa ra sự giải đáp cho vấn đề này. Trong một kiếp sống trước, bà là thân nhân của Thánh Jean Baptiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí đạo đức thâm nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng tín ngưỡng tôn giáo trong kiếp này. Trong tiền kiếp trước đó, bà sinh làm một người đàn ông ở xứ Palestine thời cổ, tại đây người này làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều này dường như đã để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả năng về máy móc trong kiếp hiện tại. Trong kiếp trước đó nữa, bà là một phụ nữ có địa vị cao ở châu Atlantide. Tại đây, một mối tình dang dở trong đời đã đem đến cho bà một sự xáo trộn tinh thần và nhiều đau khổ. Kết quả là bà “quyết định từ nay về sau sẽ không bao giờ yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và gây cho bà những vết thương lòng”. Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết định sống tự do ngoài vòng trói buộc và đau khổ của tình trường.
Bởi đó, tình trạng độc thân và đơn chiếc của người phụ nữ này không phải là do quả báo gây ra. Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những trường hợp tự tử đã kể trên, mà chỉ có sự ảnh hưởng của một dòng tâm thức liên tục, do sức mạnh ý chí của chính bà trong quá khứ. Ngày xưa, bà đã quyết định một thái độ là sẽ không bao giờ yêu ai, nhất là không để cho tình cảm lôi cuốn bà đến gần đàn ông. Bà có quyết định này, không phải do một điều ước nguyện tâm linh hay do lòng bác ái; mà là do ý muốn của bản ngã, quyết không bao giờ để cho bị ảnh hưởng bởi tình yêu dành cho kẻ khác. Trong nhiều giai đoạn của các kiếp sống theo sau đó, bà không bao giờ tìm thấy có lý do nào để thay đổi thái độ đó. Và ngày nay, bà phải chịu những hậu quả tương ứng của cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay đổi ý định và có thái độ xử thế khác hơn về vấn đề này.
Cuộc soi kiếp không cho biết rõ rằng bà có hy vọng thành hôn hay không trong kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đã cố gắng để có thể đem sự săn sóc và tình thương cho kẻ khác. Vì thiếu tình yêu, bà mới nhận thấy cái giá trị của nó. Trong sự cô đơn, bà đã thấy sự chai lòng, sắt đá của mình xưa kia là một điều sai lầm cần phải sửa đổi.
Nhà tâm lý học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ hai phần nam tính và nữ tính trong bản chất của mình, nhưng cái nọ có phần trội hơn cái kia, tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Tâm thức con người hàm chứa những khả năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về đối tượng khác phái. Sự kiện tâm lý này ông Carl Jung đã khám phá sau nhiều năm khảo cứu tìm tòi, và tỏ ra hoàn toàn phù hợp với quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về nguyên nhân và sự tiến hóa tâm lý của con người.
Nam và nữ đều có những đặc tính riêng; đại khái như uy lực, cương cường, tranh đấu, hung bạo, thuộc về nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động, thuộc về nữ tính. Người thuần nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn. Bởi đó, anh ta cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái nữ. Trong hôn nhân, hai cá tính nam và nữ đều hỗ trợ cho nhau đến một mức độ nào đó, do sự kết hợp của những đức tính tương phản nhau.
Trong một cặp vợ chồng, mỗi người đều có sự dung hòa, bổ khuyết, sửa đổi cho người kia. Nhưng sự sửa đổi này vẫn còn bất toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội hơn về phần nam tính không đủ dung hòa bằng những đặc điểm nữ tính của người vợ anh ta, và ngược lại. Nhưng nhiều kiếp sống liên tục sẽ làm cho đàn ông và đàn bà có những kinh nghiệm dung hòa lẫn nhau. Một lần nữa, thuyết luân hồi đưa đến cho ta một giải đáp về các vấn đề khó khăn là chính do nhiều kiếp luân hồi mà con người mới có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.
Bất luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh là như thế nào, dầu cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lý do nào khác, người ta cũng phải nhìn nhận rằng tình trạng độc thân và cảm giác cô độc có thể xem là một cơ hội để tu dưỡng về phần nội tâm. Vì muốn có bạn, ta phải tỏ ra sự thiện chí và tình thân hữu; vì muốn được yêu thương, ta phải biết dành tình thương cho người khác. Bằng cách trau dồi tình thương và lòng bác ái để đáp ứng được nguyện vọng của mình, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày cũng sẽ thoát được ra khỏi tình trạng buồn chán trong hiện tại và đạt được hạnh phúc của tình yêu.
Chương 15
Thắc Mắc Về Vấn Đề Hôn Nhân
Khi hai người đã quyết định làm bạn trăm năm với nhau, họ tạo nên một sự phối hợp và cùng chịu những tác động chung về mặt tâm lý. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân đưa đến cho ta một số ý niệm tổng quát về việc chọn lựa bạn trăm năm, cùng những sự liên hệ của hôn nhân trong quá khứ và tương lai.
Chúng ta có thể nói rằng trong vấn đề hôn nhân, cũng như mọi vấn đề khác, mỗi người đều có quyền tự do ý chí trong việc chọn lựa bạn trăm năm. Sự chọn lựa này chẳng khác nào như một người chọn tuyến xe buýt. Mặc dù người ấy có toàn quyền quyết định trong việc chọn lên tuyến xe nào, nhưng một khi đã chọn và bước lên xe, người ấy phải đi theo một lộ trình nhất định, một chiều hướng đã định sẵn, khác hẳn với lộ trình và chiều hướng của những tuyến xe khác. Ngoài ra, những hoàn cảnh và tiện nghi trên xe có thể không hoàn toàn đúng với sở thích của người ấy. Người tài xế có thể là một người cộc cằn thô lỗ, không khí trong xe có thể quá nóng nực, những cánh cửa sổ rất khó mở, hoặc người ngồi bên cạnh nói chuyện quá nhiều! Nói chung, có những sự việc bất ngờ có thể xảy ra trên chiếc xe này mà không xảy ra trên một chiếc xe khác. Nhưng thái độ và cách cư xử của chúng ta trong chuyến đi đều tùy nơi chính bản thân ta, và dầu cho hoàn cảnh chung quanh có diễn ra như thế nào, rốt cuộc chúng ta vẫn phải chịu trách nhiệm về thái độ và cách xử thế của mình.
Có nhiều trường hợp hôn nhân mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng do nghiệp quả gây nên. Trong trường hợp lạ lùng sau đây, thật không có một bi kịch nào đau thương hơn nữa, và những ảnh hưởng của luật nhân quả thật rất công bằng và vô cùng mầu nhiệm.
Đó là trường hợp của một thiếu phụ rất đẹp, thành hôn vào năm hai mươi ba tuổi. Nàng có đôi mắt xanh đẹp, một mái tóc vàng dợn sóng xõa xuống tận vai, một vóc người tầm thước, và một dung nhan mỹ lệ như một nữ diễn viên điện ảnh. Dầu cho vào năm bốn mươi tuổi là lúc nàng được ông Cayce soi kiếp, nàng vẫn còn có một vẻ đẹp tuyệt trần làm cho mọi người phải quay đầu nhìn và trầm trồ khen ngợi mỗi khi nàng bước vào chỗ đông người. Những bạn trai giàu có sang trọng có lẽ phải lấy làm ngạc nhiên nếu họ biết được cuộc đời tư của nàng. Trong mười tám năm kết tình chồng vợ với một nhà kinh doanh thương mãi rất có thanh thế và tiếng tăm, nàng đã trải qua một kinh nghiệm rất khó khăn và thất vọng về phương diện tình ái. Chồng nàng bị chứng bệnh bất lực. Người ta thấy ở đời cũng có những người đàn bà không hề cảm thấy dục tình và không bao giờ ham muốn những sự luyến ái trong khuê phòng; và đối với những người ấy thì tình trạng bất lực của người chồng không phải là một điều chướng ngại quan trọng lắm. Nhưng đối với người thiếu phụ kể trên, đẹp đẽ, duyên dáng, lãng mạn đa tình và tràn đầy nhựa sống, thì đó là một thảm trạng thật sự!
Thảm trạng này có thể giải quyết bằng một cuộc ly dị và sẽ chấm dứt dễ dàng, nhưng người thiếu phụ này lại không thể dùng cái biện pháp dứt khoát đó. Nàng vẫn yêu chồng và không muốn làm cho chồng đau khổ. Trong những năm đầu tiên, có một thời kỳ nàng đâm ra dan díu với những người đàn ông khác, không phải vì muốn phản bội chồng, nhưng chỉ là để thỏa mãn nhu cầu về sinh lý và tình cảm. Nhưng lần lần, nàng chế ngự được dục tình, một phần lớn là nhờ sự học hỏi đạo lý và tập tham thiền quán tưởng. Và cuộc đời nàng cứ trôi qua một cách bình thản như thế từ mười tám năm nay, trước khi cơn khủng hoảng xảy đến. Một trong những người yêu cũ của nàng trước kia lại xuất hiện trên bước đường đời của nàng.
Trong bức thơ gởi cho ông Cayce, nàng kể chuyện như sau:
“Khi chúng tôi gặp lại nhau, ngọn lửa tình lại nhen nhúm mãnh liệt trong lòng anh ấy, và tôi cũng đáp lại mối tình đó. Nhưng sức khỏe của tôi lại giảm sút trở lại như hồi trước khi tôi bắt đầu học hỏi đạo lý. Có lẽ tôi sẽ không ngần ngại mà tư tình với anh ta nếu như anh ta không có gia đình. Tôi không muốn bỏ chồng vì những lý do mà ông có thể hiểu, và cũng vì chồng tôi đã tiến bộ rất nhiều về sự cải hóa tánh tình… Có thể rằng những cảm tình của tôi đối với người đàn ông kia không phải là ái tình, mà là do tình trạng đặc biệt của gia đình tôi gây nên. Dầu sao anh ta cũng là một người có tính nết khá tốt. Anh ta yêu tôi từ thuở nhỏ, nhưng tôi không hay biết gì cả và chỉ nghe mẹ tôi nói lại. Anh ta không tỏ tình với tôi vì tự thấy còn chưa đủ sức lập gia đình. Nhưng về sau thì đã quá trễ, vì tôi đã đính hôn với chồng tôi. Tất cả những hoàn cảnh cho tôi thấy sự hành động của luật nhân quả, dường như có thể truy nguyên từ ba kiếp về trước của chúng tôi. Thỉnh thoảng, tôi đã cùng chung chăn gối với anh ta, một lẽ là vì anh ta quá yêu đương và có thể thất vọng đến hủy mình. Sau nữa, tôi hy vọng rằng làm như vậy giúp anh ta được thỏa mãn dục tình và thoát khỏi sự cuồng vọng của yêu đương… Nhưng sau cùng tôi đã đoạn tuyệt với anh ta vì tôi không muốn đóng trò giả dối với vợ anh ta và gây sự rối rắm trong gia đình họ. Tôi quen biết và cũng có cảm tình với vợ anh ta. Xã hội sẽ lên án những mối tình vụng trộm như thế. Tôi thì không muốn làm khổ một người nào. Anh ta cũng không có ác cảm với vợ, mặc dầu vợ anh ta thường giày vò đay nghiến anh ta suốt nhiều tuần không dứt. Người vợ ấy có thể sẽ làm to chuyện nếu biết được câu chuyện ngoại tình này. Chồng tôi có biết việc tôi thỉnh cầu sự giúp đỡ của ông, nhưng ông ấy không hay biết chi cả về chuyện này.”
Đó là bức thư của người thiếu phụ để giải bày tâm sự thắc mắc trong cuộc đời của cô. Câu chuyện cũng khá bi ai; nhưng cuộc soi kiếp còn tiết lộ nhiều điều bí ẩn trong cuộc đời quá khứ của người thiếu phụ, đã tạo nên tình trạng hiện nay, và cho ta thấy rằng tác động của luật nhân quả thật vô cùng chính xác và mầu nhiệm.
Trong hai kiếp về trước ở Pháp, hồi thời kỳ xảy ra cuộc Thánh chiến (Croisades), người thiếu phụ này tên là Suzanne Merceilieu, cũng là vợ của người chồng hiện nay. Ông Merceilieu, chồng cô trong kiếp đó, là một trong những người có óc phiêu lưu, và cuộc Thánh chiến ở vùng Cận Đông xa xôi càng nung nấu chí giang hồ của ông. Và cũng như nhiều người khác có lòng tín ngưỡng nhiệt thành, cuộc đời tư của ông lại hoàn toàn cách biệt hẳn với những nguyên tắc đạo đức mà ông tin tưởng và đề cao! Theo quan niệm của ông, thì Thánh địa Jérusalem, nơi an nghỉ cuối cùng của Đấng Cứu Thế, phải được giải phóng khỏi sự xâm lăng của những người “ngoại đạo.” Nhưng còn vấn đề áp dụng tình bác ái mà Đấng Cứu Thế đã dạy đối với vợ ông, thì dường như ông không bao giờ nghĩ đến!
Bởi đó, khi ông sửa soạn lên đường tham gia cuộc Thánh chiến để bảo vệ tôn giáo Gia Tô chống những kẻ “ngoại đạo”, thì đồng thời ông cũng muốn bảo vệ một chuyện khác, đó là sự trinh tiết của vợ ông. E rằng lòng tín ngưỡng tôn giáo của vợ ông không đủ nhiệt thành để giúp cho bà ấy có một sự hy sinh tuyệt đối, cũng như lòng hy sinh của chính ông, và thay vì tự an ủi bằng cách nương mình theo cửa Đạo, bà ta lại tự an ủi bằng cách nương mình trong hai cánh tay khỏe mạnh của một gã đàn ông khác, ông ta bèn dùng những biện pháp cần thiết để làm cho một sự “an ủi” như thế không thể thực hiện được. Hồi thế kỷ thứ mười hai ở Âu Châu có một dụng cụ rất hiệu quả để làm việc đó, gọi là cái đai trinh tiết mà về sau người ta cũng được biết ở Pháp vào năm 1935 và ở New York năm 1931, khi ở đây xảy ra hai vụ án về việc những người đàn bà bị chồng bắt buộc đeo cái đai trinh tiết này. Đai này gồm có những mảnh sắt và da kết lại, bao bọc phần dưới thân mình của người đàn bà, và được khóa lại bằng một ống khóa với một chìa khóa riêng, để cho người đàn bà không thể giao hợp với người đàn ông nào khác.
Chính bằng cách đó mà ông Merceilieu muốn bảo đảm cho vợ ông khỏi ngoại tình trong khi ông đi vắng. Cuộc soi kiếp của ông Cayce nói về vấn đề này như sau:
– Người này đã bị chồng nghi kỵ và bị bắt buộc phải mang một dụng cụ chướng ngại làm cho đương sự rất khổ sở bực bội.
Hai chữ “bắt buộc” hàm ý rằng bà Merceilieu không thỏa thuận về việc này từ lúc đầu. Câu sau đó cho thấy rằng về sau bà ấy còn đau khổ hơn nhiều và “quyết định sẽ trả thù khi có dịp thuận tiện”.
Sự cưỡng ép phải giữ gìn trinh tiết làm cho bà ta có những quyết định tai hại; và chính những quyết định này đã gây ra cho bà ta cái tình trạng hiện nay theo sự tác động của luật nhân quả.
Bây giờ chúng ta hãy phân tách để tìm hiểu những ảnh hưởng công bằng của luật nhân quả trong trường hợp này. Người đàn ông trong kiếp trước đã dùng một dụng cụ để gây sự chướng ngại khó khăn về tình dục cho vợ, và phải chịu quả báo bị bệnh bất lực trong kiếp này. Thật không có quả báo nào tương xứng hơn nữa.
Nhưng mới nghe qua thì hình như có sự bất công khi một người đàn bà bị áp chế một cách tàn nhẫn như thế lại phải chịu thiệt thòi về phương diện sinh lý đến hai lần. Nhưng sự bất công đó chỉ là ở bề ngoài, vì tội lỗi con người gây ra không phải chỉ là do những hành động bên ngoài mà thôi, mà còn do những ý tưởng, âm mưu, ác ý và tâm trạng tiêu cực. Người đàn bà này đã bị chồng cưỡng ép một cách bất công. Phản ứng của nàng đối với sự nghi kỵ và cách đối xử tàn nhẫn đó là một lòng căm hờn và ý nghĩ trả thù. Theo chỗ chúng ta thấy, thì lòng căm thù đó không biểu lộ ra ngoài bằng cử chỉ, nhưng quyết định trả thù vẫn có. Trong một trường hợp trước đây, chúng ta đã thấy rằng một quyết định có thể tồn tại qua nhiều kiếp sống. Quyết định trả thù sẽ tạo ra một cơ hội thuận tiện cho nàng thi hành ý định ấy.
Trong kiếp này, người thiếu phụ ấy có một sắc đẹp lộng lẫy, yêu kiều, và vô cùng hấp dẫn. Nàng kết hôn với một người đã làm khổ mình trong kiếp trước, và lần này có đủ mọi yếu tố cần thiết để làm cho chồng nàng phải phát điên lên vì ghen tuông, để hạ nhục chồng trước những bạn bè thân thuộc, hoặc gây sự đau khổ cho chồng bằng một cuộc ly dị. Nàng còn muốn gì hơn nữa? Còn cơ hội nào thuận tiện hơn nữa để trả thù một cách hoàn toàn đích đáng? Nhưng điều khác biệt lúc này là nàng đã có sự tiến bộ về phương diện đạo đức, tâm linh, và không còn nuôi ác cảm đối với bất cứ một người nào nữa.
Những bức thư của nàng từ đầu đến cuối đều biểu lộ một sự đa cảm. Nàng có thể ngoại tình, dan díu với tình nhân cũ, một sự ngoại tình mà nàng có thể che giấu chồng một cách dễ dàng. Nhưng nàng không thể chịu nổi cái ý tưởng làm khổ người vợ kia, khi người này biết được câu chuyện tình vụng trộm ấy. Bởi đó, nàng cố giữ mình. Về thể chất và tình cảm, nàng cần có sự thỏa mãn sinh lý nhưng vẫn yêu chồng và không đòi ly dị. Nàng hy sinh sự đòi hỏi của dục tình, sắc đẹp và nhựa sống của thời son trẻ để giữ một tấm lòng son sắt và trung thành.
Theo lời lẽ bí ẩn nhưng rất có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc soi kiếp thì “nàng đã gặp lại chính mình”. Thật vậy, trong tình trạng hiện tại, nàng đã gặp lại quyết định cũ thuở xưa của chính mình và đã chuộc lại lỗi cũ. Nàng đã thành công trong sự thử thách tự đặt ra cho mình từ kiếp sống trước. Kinh Thánh có nhắc lời Chúa như sau:
– Sự báo thù là ở trong tay Ta: Ta sẽ trả đủ, vì mọi sự vay trả đều phải được thanh toán sòng phẳng.
Và:
– Tai họa sẽ đến với kẻ nào chưa thanh toán xong những món nợ cũ!
Hai câu trong Kinh Thánh trên đây hàm ý rằng người ta có thể tin cậy vào luật nhân quả để trừng phạt kẻ tội lỗi; rằng người ta không cần phải băn khoăn về sự báo thù kẻ đồng loại bằng chính bàn tay của mình.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là xã hội không cần chống lại những kẻ sát nhân. Sự lên án kẻ vi phạm luật pháp là một hành động hợp lý của xã hội để duy trì nền an ninh công cộng và hạnh phúc của số đông người. Đó chỉ là sự áp dụng luật pháp một cách vô tư; và hành động lên án đó không phải là một cử chỉ báo thù.
Trong tập hồ sơ Cayce còn có một trường hợp khác về thảm kịch gia đình do việc dùng đai trinh tiết trong một kiếp của đôi vợ chồng nọ cũng vào thời kỳ Thánh chiến. Trong trường hợp này, luật nhân quả đã tác động có hơi khác hơn một chút. Theo lời tường thuật của người vợ thì chồng nàng là một người rất kiên nhẫn, hòa nhã và biết cảm thông. Tuy nhiên, sau tám năm chung sống gia đình, người đàn bà ấy vừa được ba mươi hai tuổi, vẫn luôn sợ hãi sự chung chăn gối với chồng. Người ta có thể hiểu rằng chỉ một sự kiện ấy cũng đủ làm cho tình trạng trở nên khó khăn; nhưng nó còn phức tạp hơn vì người vợ lại thầm yêu trộm nhớ và say mê một chàng ca sĩ người Ý, bạn của gia đình nàng.
Cuộc soi kiếp giải thích lý do sự sợ hãi chung chạ với chồng là do kiếp trước người đàn bà này bị chồng cưỡng ép dùng đai trinh tiết trong thời kỳ người chồng phải tùng chinh trong trận Thánh chiến. Quả báo của hành động này là người đàn ông phải có một người vợ đáp ứng thấp về mặt tình dục và rất sợ không muốn ngủ chung với ông ta!
Sự kiện người vợ chịu khổ sở vì những rối rắm trong gia đình gây nên bởi sự khủng hoảng tình dục kể trên cũng là một quả báo của cô ta. Đối với việc bị cưỡng ép mang đai trinh tiết hồi kiếp trước thì phản ứng của nàng là lòng căm thù. Và lòng căm thù tạo nên dây oan nghiệt. Cuộc soi kiếp cho biết:
– Những sự nghi nan và sợ sệt trong kiếp này là do lòng thù hận nung nấu tiềm tàng ở kiếp trước. Cái nhân xấu đó phải được tiêu trừ bằng sự thông cảm và lòng ưu ái ở kiếp này. Cô phải biết tha thứ nếu cô muốn được tha thứ. Sự say mê chàng ca sĩ có nguyên nhân là do một kinh nghiệm khác. Người ca sĩ này đã là tình nhân của nàng trong một kiếp trước ở Đông Dương.
Đáp lại câu hỏi: “Bây giờ tôi phải làm gì?”, ông Cayce nói:
– Cô hãy làm những gì phù hợp với cái lý tưởng mà cô đã lựa chọn.
Một lần khác, người ta lại thấy có yếu tố sợ hãi trong một trường hợp với nguyên nhân khác hẳn. Xét về sự đau khổ do quả báo đưa đến thì câu chuyện này thật là bi đát; nhưng theo quan điểm phân tách tâm lý thì trường hợp sau đây trình bày những tài liệu rất hay để giúp ta nghiên cứu những mối tương quan của luật nhân quả, sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh.
Hồi đó vào năm 1926, một người đàn bà đã viết thư cho ông Cayce như sau:
“Tôi quá đau khổ đến nỗi tôi sắp sửa phát điên và tự tử. Tôi là người đàn bà vô phước nhất đời, và để làm dịu bớt đau khổ, tôi phải dùng đến chất ma túy. Mẹ tôi là người đã chịu đau đớn vô ngần vì đẻ khó hết sáu lần. Suốt đời, tôi đã từng nghe mẹ tôi nói về sự dau đớn khi sinh đẻ. Vì vậy khi tôi có chồng cách mười tám năm nay đến giờ, tôi sợ mang thai đến nỗi tôi phải ở xa người chồng yêu quý của tôi, vì tôi không thể gần gũi được với anh ấy. Tôi đã cầu nguyện; tôi đã áp dụng thử khoa tâm lý, khoa chữa bệnh thần kinh v.v… nhưng không kết quả. Ông hãy xem tôi còn có hy vọng nào chăng? Tôi muốn có con và tôi vẫn yêu chồng, nhưng sự chung chăn gối làm cho tôi sợ hãi, và bây giờ thì tệ hơn bao giờ hết, vì như tôi đã nói, tôi sẵn sàng tự tử. Tôi vừa muốn tự vẫn trong tuần này, thì nghe nói về công việc của ông…
Cuộc soi kiếp truy nguyên tấn thảm kịch của người đàn bà này ở hai kiếp về trước. Trong kiếp đó, nàng sống một cách ích kỷ, xa hoa và say mê thú vui vật chất dưới vương triều nước Pháp. Đó là một cuộc đời nhộn nhịp vui tươi, nhưng nàng đã gieo hạt giống cho tấn thảm kịch nối liền theo sau, cùng với những nhà khai thác thuộc địa đầu tiên đến Bắc Mỹ, nàng sinh hạ được sáu đứa con và về sau nhìn thấy tất cả sáu đứa con ấy đều bị thiêu sống.
Cuộc soi kiếp nói tiếp:
– Người này đã sợ sệt không dứt suốt cuộc đời kể từ khi đó. Nàng đã đánh mất hoàn toàn đức tin và nuôi lòng oán hận Chúa Trời vì không che chở cho nàng và cho các con. Bởi đó, trong kiếp này nàng sợ có con, và chịu mọi hậu quả của sự sợ sệt đó.
Tấn thảm kịch xảy ra hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ có thể hiểu được. Vì chúng ta biết rằng chỉ khi thất bại về vật chất người ta mới thường quay trở về những vấn đề tâm linh. Nhưng trong khi nàng đang phải nhận lãnh quả báo thì lại gây thêm nghiệp quả mới. Dầu cho đối với một người đàn bà ích kỷ, việc phải nhìn thấy sáu đứa con chết thiêu là một sự đau khổ rất lớn. Trong cơn đau khổ đó, thay vì nuôi dưỡng một tình thương nảy nở dồi dào, nàng đã ôm lấy sự sợ hãi với tấm lòng đầy oán hận. Chính sự oán hận ấy đã tạo thành quả báo ngày nay mà nàng phải nhận chịu.
Điều mà mỗi chúng ta cần nhận biết là, một tình thương chân thật sẽ có năng lực xua đuổi sự sợ sệt. Người phụ nữ này không hiểu được điều đó, không hiểu rằng nàng phải dứt bỏ cái quan niệm ích kỷ đối với cuộc đời; phải tập mở rộng lòng thương yêu người khác, trong đó có chồng nàng. Vì không nuôi dưỡng được tình thương, nên nàng phải tiếp tục sống trong nỗi sợ hãi về sự đau đớn thể xác ám ảnh và không thể làm vợ, làm mẹ như mong muốn.
— o0o —
[ Mục Lục ] [ Phần 1] [ Phần 2 ] [ Phần 3 ] [ Phần 4 ] [ Phần 5]