• Home
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
    • Luân Hồi
    • Nhân Quả
  • Học Thiền
    • Người mới học
    • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Tổ Sư
      • Thiền Mật Tông
    • Thiền Tông
    • Thiền Nam Tông
    • Khóa Tu Thiền – Niệm Phật
    • Hỏi Đáp
  • Kinh
    • Phạn Ngữ/Hán Tạng
    • kinh Pali
    • Nghe đọc kinh
    • Giảng Giải Kinh
  • Luật & Luận
    • Luận
    • Duy Thức Luận
    • Thắng Pháp
    • Luật
  • Ăn Chay
  • Tâm Linh
    • Tâm linh ngoại cảm
    • Tâm linh và Phật giáo
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
    • Kiến thức cơ bản
    • Khái niệm cốt lõi
    • Phật Giáo Việt Nam
    • Khoa Học và Phật Giáo
    • Lịch sử Phật Giáo
  • Sách
    • sách thiền Đại Thừa
    • Thiền Tông
    • Sách về Niệm Phật
    • sách thiền Nam Tông
    • sách Kim Cang Thừa
    • Sách Tổng hợp
    • sách hay gợi ý cho bạn
  • Niệm Phật
  • Video
    • Phật Giáo Video
    • Thiền Học Video
  • Hỏi Đáp
  • Sức khỏe – Ẩm thực
No Result
xem toàn bộ kết quả
  • Home
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
    • Luân Hồi
    • Nhân Quả
  • Học Thiền
    • Người mới học
    • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Tổ Sư
      • Thiền Mật Tông
    • Thiền Tông
    • Thiền Nam Tông
    • Khóa Tu Thiền – Niệm Phật
    • Hỏi Đáp
  • Kinh
    • Phạn Ngữ/Hán Tạng
    • kinh Pali
    • Nghe đọc kinh
    • Giảng Giải Kinh
  • Luật & Luận
    • Luận
    • Duy Thức Luận
    • Thắng Pháp
    • Luật
  • Ăn Chay
  • Tâm Linh
    • Tâm linh ngoại cảm
    • Tâm linh và Phật giáo
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
    • Kiến thức cơ bản
    • Khái niệm cốt lõi
    • Phật Giáo Việt Nam
    • Khoa Học và Phật Giáo
    • Lịch sử Phật Giáo
  • Sách
    • sách thiền Đại Thừa
    • Thiền Tông
    • Sách về Niệm Phật
    • sách thiền Nam Tông
    • sách Kim Cang Thừa
    • Sách Tổng hợp
    • sách hay gợi ý cho bạn
  • Niệm Phật
  • Video
    • Phật Giáo Video
    • Thiền Học Video
  • Hỏi Đáp
  • Sức khỏe – Ẩm thực
No Result
xem toàn bộ kết quả
Thiền Phật Giáo
No Result
xem toàn bộ kết quả
Trang chủ Sách Thiền sách thiền Đại Thừa

Đại Huệ Ngữ Lục

2 năm trước
A A
Cát và Đá – Hai người bạn
2.4k
chia sẻ
47k
xem
chia sẻ lên Facebookchia sẻ Twitter

Tông Cảo Thiền Sư – Đại Huệ Ngữ Lục

Tỳ Kheo Thích Duy Lực dịch từ Hán sang Việt và lược giải
Từ Ân Thiền Đường xuất bản 1992
|
Mục lục |

THƯ ĐÁP VỀ PHÁP YẾU

(1)

THƯ ĐÁP LÝ HIẾN THẦN

I

Phật nói:

Nếu người muốn biết cảnh giới Phật.

Ý căn thanh tịnh như hư không.

Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ.

Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại.

Cảnh giới Phật chẳng phải cảnh giới ngài có tướng Phật bên. Ấy là cảnh giới của thánh trí tự giác vậy. Nếu muốn biết cảnh giới này, chẳng nhờ trang nghiêm tu chứng mà được, phải ở nơi ý căn tẩy sạch các thứ ô nhiễm phiền não từ vô thủy đến nay khiến cho trống rỗng như hư không, xa lìa những chấp thủ trong ý thức và những vọng tưởng hư ngụy chẳng thật. Ý căn nếu như hư không thì Diệu Tâm vô công dụng này tự nhiên khắp nơi chẳng chướng ngại.

II

Đã học đạo này, trong mười hai thời, nơi tùy duyên tiếp vật không cho ác niệm tương tục, hoặc khi sơ sót khởi một niệm ác phải gấp kéo đầu trở lại. Nếu để mặc nó tương tục không dứt, chẳng những chướng đạo, cũng gọi là người không trí tuệ.

Khi xưa Quy Sơn hỏi Đại An: Ngươi trong mười hai thời việc làm thế nào?

An nói: Chăn trâu.

Sơn nói: Ngươi chăn như thế nào?

An nói: Một phen vào lúa mạ, liền kéo mũi trở về.

Sơn nói: Ngươi là người chăn trâu chân thật.

Người học đạo kiềm chế ác niệm nên như Đại An chăn trâu thì lâu ngày tự thuần thục vậy.

III

“Cung người, ta chớ cầm, ngựa người, ta chớ cưỡi, việc người, ta chớ biết. “Lời này dù tầm thường cũng có thể làm trợ duyên để đi vào đạo. Hàng ngày thường nên tự kiểm điểm từ sáng tới tối đã làm việc gì tự lợi, lợi người? Nếu cảm thấy hơi thiêng một bên thì phải tự cảnh sách, chẳng nên khinh thường. Xưa kia thiền Sư Đạo Lâm kết am trên cây tùng nơi núi Tần Vọng, người thời ấy gọi Ngài là Hòa Thượng “ổ chim”. Khi Bạch Cư Dị làm quan Thị Lang ở Tiền Đường có vào núi thăm Sư. Ông thưa: Chỗ ở của Sư rất nguy hiểm.

Sư Nói: Lão Tăngcó gì nguy hiểm. Thị Lang càng nguy hiểm hơn.

Đệ tử trấn thủ giang sơn có gì nguy hiểm?

Củi lữa lẫn lộn, tánh thức chẳng ngừng, há chẳng phải nguy hiểm ư!

Dị lại hỏi: Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư nói: Việc ác chớ làm, việc thiện phụng hành.

Con nít ba tuổi cũng biết nói như thế.

Con nít ba tuổi dù nói được, ông già tám mươi hành chẳng được.

Dị liền lễ bái cáo từ.

Nay muốn ít phí tâm lực chớ màng đến con nít nói được hay nói chẳng được, ông già tám mươi hành được hay hành chẳng được, hễ việc ác chớ làm thì xong. Lời này tin hay không tin xin nghĩ kỹ!

*

Vô minh của người đời tuy đang hiện hành, nếu làm thiện thì phước dù chưa đến cũng hơn người không liêm sỉ mang danh thiện mà làm ác. Trong Kinh nói: “Nhân địa chẳng chơn thì chiêu quả quanh co”. Hể trực tâm trực hành, thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề mới gọi là việc làm của đại trượng phu chân thật. Việc từ trần sa kiếp chỉ ở hiện nay, nếu hiện nay được hội được thì việc trần sa kiếp tức thời tan rã. Nếu hiện nay chẳng hội thì lại trải qua trần sa kiếp nữa, cũng chỉ như thế thôi. Cái pháp như thế xưa nay thường vậy, chưa từng có một chút dời đổi.

Việc trần lao trong thế gian như mắt xích nối nhau không dứt. Hể giảm bớt được thì cứ bớt, vì tập khí từ vô thủy đã quá quen thuộc, nếu không ra sức chống lại thì lâu ngày bất tri bất giác lún đầu xuống sâu, đến khi lâm chung ắt tay chân rối loạn. Nếu muốn khi lâm chung không rối loạn thì phải từ cuộc sống hàng ngày hiện nay làm việc gì cũng phải không rối loạn mới được.

Có một hạng người sáng thì xem kinh niệm Phật sám hối, tối thì tạo khẩu nghiệp chửi mắng người, hôm sau lễ Phật sám hối như cũ. Từ đầu năm đến cuối năm, mỗi ngày làm thời khóa như thế, ấy thực là quá ngu si. Không biết chữ sám là tiếng Phạn, chữ hối là tiếng Hán, nghĩa là phải đoạn dứt cái tâm tương tục. Hễ sám hối thì dứt hẳn, chẳng còn tạo tội nữa. Theo ý Phật nên sám hối như thế, người học đạo phải biết đúng như vậy.

*

Người học đạo trong mười hai thời, tâm ý thức thường nên yên tịnh. Lúc rảnh cũng nên yên tịnh, khiến thân tâm chẳng buông lung. Tập lâu thành quen thuộc, tự nhiên thân tâm hướng về đạo.

Nhưng yên tịnh Ba La Mật chỉ để trị bịnh vọng giác tán loạn của chúng sanh mà thôi. Nếu chấp ở nơi yên tịnh cho là cứu cánh thì sẽ bị lọt vào tà thiền mặc chiếu.

*

Bát Nhã là tiếng Phạn dịch là trí tuệ. Chưa có người đã thấu rõ Bát Nhã lại còn tham sân si ái, cũng chưa có người đã thấu rõ Bát Nhã mà lại còn độc hại chúng sanh, vì làm những việc này là trái nghịch Bát Nhã, đâu thể gọi là trí tuệ.

*

Hằng ngày đem việc sanh tử thường để trong niệm thì tâm trí đã chánh. Tâm trí đã chánh thì khi ứng dụng hàng ngày tùy duyên làm việc, chẳng phí sức buông bỏ tà ác. Chẳng tà ác thì chánh niệm độc thoát, chánh niệm độc thoát thì lý tùy sự biến, lý tùy sự biến thì sự đắc lý dung, sự đắc lý dung thì ít phí sức lực. Khi vừa cảm thấy ít phí sức lực tức là chỗ đắc được trong việc học đạo này. Chỗ đắc được ít phí sức vô cùng. Chỗ ít phí sức là chỗ đắc sức vô cùng.

*

Việc này cho người thông minh lanh lợi gánh vác, nhưng nếu ỷ thông minh lanh lợi thì chẳng có phần để gánh vác. Kẻ thông minh lanh lợi dù dễ nhập đạo mà khó nơi bảo nhiệm, vì chỗ nhập cạn mà sức yếu. Vì người thông minh lanh lợi vừa nghe thiện tri thức nói ra liền đem tâm ý thức lãnh hội ngay vậy. Nếu cứ lãnh hội như thế là tự làm chướng ngại, suốt kiếp không khi nào được ngộ, vì ma quỷ bên ngoài gây họa còn có thể trị, còn chính tự tâm mình chướng ngại thì vô phương trị.

Chứng Đạo Ca rằng:

Tổn pháp tài, diệt công đức, tất cả đều do tâm ý thức.

IV

Học giả rộng xem nhiều sách vốn để nuôi dưỡng và lợi ích cho tánh thức. Nay ngược lại, chỉ ghi nhớ lời người xưa chứa trong bụng cho là sự nghiệp, dùng để đàm luận, mà chẳng biết ý thuyết giáo của bậc thánh. Cũng như suốt ngày đếm tiền của người khác, tự mình lại chẳng có được nửa xu. Xem đọc kinh giáo của Phật cũng vậy, nên nhìn thấy mặt trăng mà quên ngón tay, chớ nên y văn giải nghĩa.

Cổ đức nói:

Phật thuyết tất cả pháp,
Vì độ tất cả tâm.
Ta chẳng tất cả tâm,
Đâu cần tất cả pháp.

Kẻ có chí khí xem kinh đọc sách nên theo cách như thế mới thể hội được ít phần của bậc thánh.

KHAI THỊ LÝ HIẾN THẦN

I

Phật nói: Chẳng nên ở nơi một pháp, một việc, một thân, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai. Nên cùng khắp tất cả nơi mà thấy Như Lai.

Phật nghĩa là giác, ở nơi tất cả chỗ thường giác. Nói thấy khắp nghĩa là thấy bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật của chính mình, không có một lúc nào, một chỗ nào, một pháp nào, một sự nào, một việc nào, một thân nào, một cõi nước nào, một chúng sanh giới nào mà không khắp. Chúng sanh mê cái này mà luân chuyển trong ba cõi (dục, sắc và vô sắc giới), chịu các thứ khổ. Chư Phật ngộ cái này mà vượt khỏi ba cõi, thọ sự vui thù thắng nhiệm mầu. Nhưng khổ vui đều không có thực thể, chỉ vì có mê ngộ sai biệt mà có các đường khổ vui khác nhau đó thôi. Cho nên Ngài Đỗ Thuận (sơ tổ tông Hoa Nghiêm) nói: Pháp thân lưu chuyển trong năm đường (trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục) gọi là chúng sanh. Lúc chúng sanh hiện thì pháp thân chẳng hiện vậy.

II

Thiện ác đều từ tự tâm sanh khởi. Thử nói xem: lìa đi đứng ngồi nằm, suy nghĩ phân biệt ra, lấy cái gì làm tự tâm? Tự tâm từ đâu mà khởi? Nếu biết được chỗ khởi của tự tâm thì vô biên nghiệp chướng nhất thời tan rã, các thứ thù thắng không cầu mà tự đến vậy.

Thêm nữa, biết được chỗ đi chỗ đến mới gọi là người học Phật. Biết kẻ sanh tử là ai? Biết thọ sanh tử là ai? Kẻ chẳng biết chỗ đi chỗ đến là ai? Kẻ bỗng biết được chỗ đi chỗ đến lại là ai? Khán thoại đầu này con mắt ngơ ngơ hiểu không được, trong bụng trồi lên hụp xuống, trong tâm giống như một đóng lửa, lại là ai ? Nếu muốn biết, chỉ cần hướng vào chỗ “hiểu không được” mà nhận lấy. Nếu nhận được rồi mới biết sanh tử vốn chẳng dính dáng gì cả. Lại nói, phàm xem kinh giáo và nhân duyên nhập đạo của cổ đức tâm chưa sáng tỏ, cảm thấy mê muội, không mùi vị, giống như đang cắn cục sắt, ngay đó chính là lúc nên dụng công phu, không được buông bỏ, ấy là chỗ ý thức ngưng vận hành suy nghĩ chẳng thể đến, tuyệt phân biệt, bặt lý lẽ,. Bình thường nếu có thể nói được đạo lý, phân biệt được chỗ hành, đều là việc bên tình thức. Nhiều người thường hay nhận giặc làm con, cần phải biết việc này vậy.

(2)

THƯ ĐÁP HUỲNH BÁ THÀNH.

Cổ đức nói:

Tìm trâu theo dấu tích.
Học đạo phải vô tâm.
Dấu còn thì trâu còn.
Vô tâm đạo dễ tìm.

Nói vô tâm chẳng phải như gỗ đá vô tri, ấy chỉ là gặp duyên thấy cảnh, tâm đều chẳng lay động. Đối với các pháp chẳng chấp thật, tất cả nơi trong sạch vô chướng ngại, chẳng chỗ ô nhiễm cũng không trụ nơi chẳng ô nhiễm. Quán xét thân tâm như mộng như huyễn cũng không trụ nơi cảnh hư vô mộng huyễn. Đến được cảnh giới này mới gọi là chân vô tâm, chẳng phải cái vô tâm của miệng nói. Nếu chưa được chân vô tâm, chỉ căn cứ theo lời nói thì so với tà thiền Mặc Chiếu đâu có khác gì!

Hễ được gốc, chớ lo ngọn. Tẩy sạch được tâm này là gốc, đã được gốc thì mỗi mỗi ngôn ngữ, mỗi mỗi trí tuệ hàng ngày tùy duyên tiếp vật. Thất điên bát đảo, hoặc giận hoặc vui, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc thuận hoặc nghịch, đều là ngọn vậy. Nếu ở nơi tùy duyên được tự giữ bản giác thì chẳng thiếu chẳng dư.

Người học đạo ứng dụng hàng ngày, cảnh không thì dễ mà tâm không thì khó. Nếu cảnh không mà tâm chẳng không thì tâm bị cảnh lôi kéo. Nếu tâm không thì cảnh tự không. Nếu tâm đã không mà còn muốn khởi niệm thứ hai để không cái cảnh, ấy là tâm này chưa không, lại bi cảnh đoạt. Nếu bệnh này chẳng trừ thì sanh tử không lý nào thoát ly được.

Như Bàng Uẩn trình kệ Mã Tổ rằng:

Mười phương đồng tụ hội.
Mỗi mỗi học vô vi.
Đây là nơi tuyển Phật.
“Tâm không” thi đậu về.

Tâm này đã không rồi thì ngoài tâm đâu còn vật gì để cần không nữa! Suy nghĩ kỹ đi.

(3)

THƯ ĐÁP LA MẠNH BÁCH

Sự chướng đạo của tâm ý thức còn quá hơn rắn độc, cọp dữ. Tại sao vậy? Vì rắn độc, cọp dữ còn có thể trốn tránh, còn những người thông minh lanh lợi lấy tâm ý thức làm hang ổ, đi đứng nằm ngồi chưa từng có khoảnh khắc xa lìa nó, lâu ngày bất tri bất giác cùng nó kết thành một khối, cũng chẳng phải muốn thành một khối vì từ vô thủy đến nay đã đi con đường này quá quen thuộc, dù bỗng khám phá được cái hại của nó nhưng muốn xa lìa cũng chẳng thễ được. Cho nên nói: “Đối với độc cọp dữ còn có thể trốn tránh nhưng với tâm ý thức thực chẳng có chỗ để trốn tránh”.

(4)

THƯ ĐÁP TỪ ĐÔN LẬP

Bậc sĩ phu trí thức phần nhiều dùng cái tâm có sở đắc để cầu cái pháp vô sở đắc. Thế nào là tâm có sở đắc? Đó là tâm thông minh lanh lợi, suy nghĩ tinh toán. Thế nào là pháp vô sở đắc? Đó là cái chỗ suy nghĩ chẳng đến, tính toán chẳng được, thông minh lanh lợi không có chỗ dùng. Thấy chăng? Phật Thích Ca trên hội Pháp Hoa, Xá Lợi Phất ba phen ân cần thưa hỏi mà khi đó Phật Thích Ca không có gì để mở niệng, rốt cuộc Ngài tận lực cũng chỉ có thể nói: “Pháp này chẳng phải suy nghĩ phân biệt có thể hiểu được”. Đây là cây dùi để mở cửa phương tiện, hiển thị chân thật tướng, là việc cùng tột của Phật Thích Ca. Xưa kia thiền sư Tuyết Phong cũng vì thiết tha về việc này mà ba phen đến Đầu Tử, chín lần đến Động Sơn. Vì nhân duyên không khế hợp, sau đến thiền hội Đức Sơn.

Một hôm Phong hỏi Đức Sơn rằng: Tông phong từ xưa nay dùng pháp nào khai thị người?

Đức Sơn nói: Tông ta không có ngữ cú, cũng chẳng có một pháp để khai thị người.

Phong hỏi: Việc trong thiền tông từ xưa nay, người học như con còn có phần hay không?

Đức Sơn cầm gậy đánh xuống rằng: Nói cái gì!

Tuyết Phong ngay dưới gậy liền vỡ tung được thùng sơn đen (ngộ). Theo đó mà xem thì biết trong cửa này, thông minh lanh lợi, phân biệt tính toán một chút cũng dùng không được. Cổ đức có nói: “Bát Nhã như đống lửa lớn, gần nó ắt bị đốt cháy mặt mày, tính toán suy tư ắt rơi vào ý thức”.

Chứng Đạo Ca nói:

Tổn pháp tài diệt công đức.

Tất cả đều do tâm ý thức.

Cho nên biết tâm ý thức chẳng những chướng đạo, mà còn khiến người điên đảo làm điều bất thiện nữa. Nếu đã có tâm muốn thấu đáo đạo này, cần phải có chí quyết định chẳng đến được chỗ đại thôi nghỉ, đại giải thoát, thề suốt đời không lui sụt.

Thực ra Phật pháp chẳng có nhiều, tu lâu khó đắc là vì việc trong trần lao của người đời như mắt xích nối nhau không dứt, kẻ ý chí hạ liệt thường cam chiụ làm bạn với chúng, chẳng hay chẳng biết bị chúng lôi kéo đi tuốt, ngoại trừ những người thực có huệ căn, có nguyện lực mới chịu dứt hẳn trần lao. Chứng Đạo Ca nói: “Thực tánh của vô minh tức là Phật tánh, thân huyễn hóa này tức là pháp thân. Nếu giác được pháp thân thì chẳng có một vật, bổn nguyên là tự tánh thiên chân Phật”. Nếu suy nghĩ như thế, thình lình nhập vào chỗ suy nghĩ chẳng thể đến, thấy được cái “vô nhất vật” của pháp thân, tức là chỗ ra khỏi sanh tử của hành giả. Đoạn trước nói: “Pháp vô sở đắc chẳng thể dùng tâm có sở đắc để cầu” là nghĩa này vậy.

Bậc sĩ phu trí thức trong cuộc sống, suốt đời suy lường tính toán, vừa nghe thiện tri thức thuyết pháp vô sở đắc trong tâm liền nghi hoặc, e sợ lọt vào KHÔNG. Diệu Hỷ (Đại Huệ) mỗi khi gặp thấy thì hỏi họ rằng: “Kẻ e sợ lọt vào KHÔNG này liệu có thể không như nó được chăng?” Người đời thường trăm phần trăm mịt mù không rõ vì hàng ngày cứ đem suy nghĩ tình toán làm nhà cửa, chợt nghe nói không có chỗ để suy nghĩ thì cảm thấy hoang mang mịt mù, chẳng có chỗ dựa. Không biết ngay nơi chẳng có chỗ dựa đó tức là chỗ an thân lập mạng của chính mình. Đạo hữu Đôn Lập trước kia gặp gỡ ở Di Môn; khi ấy tuổi trẻ khoẻ mạnh, đã biết có đại sự nhân duyên này (từ NGHI đến NGỘ) nhưng vì rộng học nhiều sách, nơi kinh sử đã nhập quá mức vào quá thâm sâu, thông minh quá lố, lý lẽ quá nhiều, định lực thì quá ít, bị việc làm hàng ngày lôi kéo, nên đối với việc “dưới gót chân” (tham thiền) chẳng thể đạt đến miên mật. Nếu chánh niệm hiện tiền mãi mãi, cái tâm thống thiết việc sanh tử không biến đổi, thì trải qua ngày tháng lâu dài ắt chỗ lạ tự quen, chỗ quen tự thành lạ vậy.

Lại chỗ nào là chỗ quen? Ấy là thông minh lanh lợi, suy nghĩ tính toán. Chỗ nào là chỗ lạ? Ấy là Bồ Đề Niết Bàn chân như Phật tánh, chỗ suy tư cắt tuyệt, chỗ suy nghĩ đo lường chẳng thể đến, chỗ không thể dùng tâm sắp đặt.

Hễ khi thời tiết đến, hoặc ở nơi nhân duyên nhập đạo của Cổ Đức, hoặc khi đang xem kinh, hoặc đang làm việc hàng ngày đối với những thiện những bất thiện, những thân tâm tán loạn, những cảnh giới thuận nghịch hiện tiền v.v… đang khi ấy nếu được tâm ý thức tạm ngưng nghỉ, bỗng nhiên “đập bể ống khóa” (kiến tánh) cũng chẳng phải việc khó.

(5)

THƯ ĐÁP ĐẶNG TỬ LẬP

Gần đây các tòng lâm thường đem lời vấn đáp kỳ lạ của người xưa làm nhân duyên sai biệt để mê hoặc học giả mà không căn cứ vào thực tế. Chỗ Phật thuyết pháp chỉ e người nghe không hiểu, dẫu cho có thuyết lời vi ẩn cũng dẫn chứng thí dụ khiến chúng sanh dễ ngộ nhập.

Cũng như Tăng hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật?

Tổ nói: Tức tâm là Phật.

Nếu ở đây ngộ nhập thì đâu có gì sai biệt. Nếu ở đây chẳng ngộ thì ngay câu “tức tâm là Phật” này liền thành nhân duyên sai biệt. Người tham thiền xem kinh giáo và nhân duyên vào đạo của Cổ Đức cần phải để rỗng rang cái tâm của mình, chẳng nên hướng lên trên danh tự nghĩa cú mà cầu huyền diệu, cầu ngộ nhập. Nếu khởi cái tâm này tức là tự chướng cái chánh tri kiến của chính mình, thì suốt kiếp cũng chẳng có chỗ ngộ nhập.

Bàng Sơn nói: “Ví như dùng kiếm chém hư không, không kể trúng hay không trúng, hãy chú ý nhé”.

Duy Ma Cật nói: “Pháp siêu việt nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý”. Muốn triệt ngộ pháp này, trước tiên cần phải ngăn trừ nơi cửa lục căn không để cho có chút lỗi lầm. Cái gì là lỗi lầm? Đó là bị sắc, kthanh, hương, vị, xúc, pháp dính mắc mà không thể xa lìa, lại ở nơi ngôn cú của cổ đức và kinh điển cầu tri kiến, tìm giải hội. Nếu như có thể ở trong kinh điển và nhân duyên vào đạo của cổ đức mà không khởi một niệm nào khác, ngay đó trở về tự tánh thì đối với cảnh giới mình, cảnh giới người đều như ý, tự tại vậy.

Đức Sơn thấy Tăng vào cửa liền đập, Lâm Tế thấy Tăng vào cửa liền hét. Tôn túc các nơi gọi đó là “ngay đó nhắc nhở trước mặt, thẳng tay phó chúc”. Nhưng Diệu Hỷ lại gọi là dính sơn dính sình, dẫu cho ngay nơi một gậy một hét mà toàn thân gánh vác được đã là một kẻ không phải là đại trượng phu, bị họ tạt một gáo nước thối ngay đầu rồi, huống là ở nơi một gậy một hét mà cầu kỳ lạ, tìm diệu hội ư! Ấy là kẻ trong xấu hổ lại thêm xấu hổ.

***

(6)

THƯ ĐÁP LỮ THUẤN NGUYÊN

Xưa kia Đô Úy Lý Văn Hòa tham vấn thiền sư Thạch Môn Từ Chiếu, ngộ được của tông chỉ của Lâm Tế, có làm bài kệ rằng:

Học đạo, tâm cứng như sắt,
Thẳng tay, trong lòng vững chắc.
Chụp ngay Vô Thượng Bồ Đề,
Tất cả thị phi chẳng màng.

Lành thay lời này, có thể giúp cho học vấn sáng tỏ, phát ra đại dụng vậy. Còn bảo Phật là thuốc của chúng sanh, chúng sanh bệnh lành thì thuốc cũng vô dụng. Nếu bệnh lành còn giữ thuốc thì chỉ có thể nhập cảnh giới Phật, mà chẳng thể nhập cảnh giới ma, vẫn còn là bệnh. Bệnh này với bệnh chúng sanh chưa lành đâu có khác. Hễ bệnh lành thì thuốc cũng bỏ, Phật, ma đều quét thì mới có thể đối với đại sự nhân duyên này có chút phần tương ưng.

Phật là kẻ đã liễu sự trong cõi chúng sanh, chúng sanh là kẻ bất liễu sự trong cõi Phật. Muốn được như một thì phải đem Phật với chúng sanh buông xả một lượt, vậy mới không có sự liễu với sự bất liễu.

Cổ Đức nói:

Hễ ở nơi sự thông vô sự,

Thấy sắc nghe tiếng khỏi mù điếc.

Con người dù biết được đạo lý thế gian hư vọng chẳng thật, song đến khi đối cảnh gặp duyên, sự thực bỗng hiện trước mắt, muốn không tùy thuận nó nhưng vẫn phải bị nó lôi kéo đi. Bởi vì tập khí từ vô thủy đến nay, chỗ quen đã quá quen, chỗ lạ thì quá lạ, nên tuy tạm biết được rõ, song đạo lực chẳng thắng được nghiệp lực.

Vậy thế nào là chỗ quen của nghiệp lực? Thế nào là chỗ lạ của đạo lực?

Thật ra đạo lực và nghiệp lực vốn chẳng cố định, chỉ cần xem chỗ hiện hành hàng ngày có tham ái hay không mà thôi. Nếu có tham ái thì nghiệp lực thắng đạo lực. Nghiệp lực thắng thì khi gặp cảnh duyên liền bị kẹt, gặp cảnh duyên bị kẹt thì chỗ nào cũng dính mắc, chỗ nào cũng dính mắc thì gặp khổ, vui đều là khổ. Cho nên Phật Thích Ca nói với Di Lặc rằng: “Nếu ngươi cho sắc, không đoạt nhau (sanh diệt lẫn nhau) nơi Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng tùy theo sắc, không mà cùng khắp pháp giới, thế nên mới có những hiện tượng gió thổi thì động, hư không thì tịnh, mặt trời hiện thì sáng, mặt trời lặn thì tối. Vì chúng sanh mê muội, bỏ bản giác theo cảnh trần, nên sanh khởi trần lao mà có tướng thế gian”. Ấy là nghiệp lực thắng đạo lực.

LƯỢC GIẢI:

Sắc không đoạt nhau nơi Như Lai Tạng:

Tại sao nói sắc, không đoạt nhau? Như ban ngày thấy sáng khắp hư không, ban đêm thấy tối khắp hư không, đó là sáng tối tự sanh diệt đoạt nhau chẳng dính dáng với hư không. Hư không chưa từng sáng tối. Hư không dụ cho Như Lai Tạng. Do nghiệp lực sanh khởi trần lao mới thấy có gió động tịnh, mặt trời sáng tối v.v… lăng xăng đoạt nhau trong Như Lai Tạng mà chẳng dính dáng với Như Lai Tạng. Như Lai Tạng chưa từng dính mắc trần lao. (lược giải hết)

Phật Thích Ca lại nói: “Ta có cái diệu minh bất sanh bất diệt hợp với Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng chỉ có diệu giác sáng tỏ chiếu khắp pháp giới. Thế nên một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, khắp mười phương cõi đạo tràng chẳng động, thân gồm mười phương hư không, nơi đầu sợi lông hiện Phật sát, ngồi trong hạt bụi chuyển pháp luân”. Đây là chỗ hiện hành đạo lực thắng nghiệp lực.

Dù nói như thế nhưng sự thật cả hai đều là hư vọng. Nếu bỏ nghiệp lực mà chấp đạo lực thì tôi dám bảo rằng người này chẳng hội được phương tiện tùy nghi thuyết pháp của chư Phật. Tại sao vậy? Như Phật Thích Ca nói: “Nếu chấp pháp tướng tức là dính mắc ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp phi pháp tướng cũng là dính mắc ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Do đó chẳng nên chấp pháp cũng chẳng nên chấp phi pháp”. Đoạn trên tôi nói: “Đạo lực và nghiệp lực vốn chẳng cố định” là nghĩa này vậy.

Nếu là bậc đại trượng phu, mượn đạo lực làm công cụ để phá trừ nghiệp lực, nghiệp lực đã trừ thì đạo lực cũng hư vọng. Nên nói: “Chỉ dùng giả danh tự dẫn dắt chúng sanh”. Lúc chưa khám phá thì khó lắm, còn sau khi khám phá rồi thì có gì khó dễ đâu!

Bàng Uẩn nói:

Phàm phu chí lượng hẹp,
Vọng nói có khó dễ.
Lìa tướng, như hư không,
Khế hợp chư Phật trí.
Giới tướng cũng như không,
Kẻ mê tự tác trì.
Gốc bệnh chẳng nhổ sạch,
Chỉ là đùa hi hi.

Muốn biết gốc bệnh chăng? Chẳng phải vật gì khác, mà chỉ là cái chấp khó chấp dễ, vọng sanh lấy bỏ đó. Cái gốc bệnh này nhổ không sạch, thì phải chìm nổi trong biển sanh tử chẳng có ngày ra.

Xưa Tú tài Trương Tuyết vừa bị bậc tôn túc điểm đúng căn bệnh, liền hội và nói:

Dứt trừ phiền não càng thêm bệnh,
Hướng đến Chân như cũng là tà.
Tùy thuận thế duyên vô quái ngại!
Niết Bàn sanh tử bằng không hoa.
(hoa đốm trên không)

Muốn được thẳng tắt, chẳng nghi Phật, Tổ, chẳng nghi sanh tử, chỉ cần để cho tấm lòng trống rỗng, việc đến thì tùy duyên ứng phó, mà tâm định như nước trong lặng, chiếu soi như gương sáng tỏ. Nếu tướng thiện ác, xấu đẹp nào đến, trốn một mảy may không được, vậy mới tin biết cái cảnh giới vô tâm tự nhiên bất khả tư nghì.

(7)

NGỤY CÔNG THỈNH THĂNG TÒA

Sư khai thị: Muốn biết pháp chăng? Ây là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh. Muốn biết bệnh chăng? Ấy là tham sân, tà kiến, vọng tưởng, điên đảo. Mặc dầu như thế, nhưng lìa điên đảo vọng tưởng thì chẳng có Chân Như, Phật Tánh; lìa tham sân, tà kiến thì chẳng có Bồ Đề, Niết Bàn. Như thế phân là đúng hay là chẳng phân là đúng? Nếu phân thì còn một bỏ một, cái bệnh càng nặng. Nếu chẳng phân thì Chân Như, Phật Tánh mơ hồ, rốt cuộc làm sao nói rõ cái lý lẽ “trừ bệnh chẳng trừ pháp”.

Có người vừa nghe những lời kể trên liền nói: “Tức pháp là bệnh, tức bệnh là pháp. Hễ có ngôn thuyết đều chẳng phải nghĩa thật. Nếu thuận theo Chân Như thì vọng tưởng, điên đảo, tham sân, tà kiến thảy đều là pháp. Nếu thuận theo điên đảo thì Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn thảy đều là bệnh”. Nếu có kiến giải như thế thì chẳng những không đủ tư cách mặc đồ tu, mà muốn làm nô lệ cho Tọa chủ cũng không thể được. Tại sao? Như Cổ Đức nói: “Nếu có một pháp hơn pháp Niết Bàn, ta nói cũng như mộng huyễn”. Nếu được ở trong mộng huyễn, như thực mà chứng, như thực mà giải, như thực mà tu, như thực mà hành, dùng cái pháp như thực đó khéo tự điều phục, rồi khởi tâm đại bi làm mọi phương tiện để điều phục tất cả chúng sanh, mà đối với chúng sanh chẳng có cái tư tưởng điều phục hay không điều phục, cũng chẳng nghĩ rằng đó là vọng tưởng, điên đảo, tham sân, tà kiến; chẳng nghĩ rằng đó là Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, chẳng nghĩ rằng đó là “trừ bệnh chẳng trừ pháp”, chẳng nghĩ là “còn một bỏ một”, “phân hay chẳng phân”. Nếu chẳng có những suy nghĩ như thế thì được nhứt đạo trong sạch, bình đẳng, giải thoát.

(8)

THƯ ĐÁP TĂNG THIÊN DU

PHỤ THƯ HỎI:

Lúc tôi ở Trường Sa được thư của Lão sư Viên Ngộ nói: “Ông lúc tuổi già tham thiền sở đắc rất là kỳ vĩ”. Tôi nhiều lần nghĩ đến điều đó, nay đã tám năm rồi, thường hận chưa được đích thân nghe lời dạy bảo. Thật xiết bao ngưỡng mộ!

Tôi từ ấu niên đã phát tâm tham lễ các bậc tri thức, cúi đầu đảnh lễ hỏi đến việc này. Từ tuổi trưởng thành về sau, bị việc hôn nhân và quan chức sai khiến nên việc dụng công chẳng được thuần nhât. Từ đó đến ngày nay, tuỗi đã già rồi, đối với điều chưa được học hỏi thường tự hổ thẹn thở than, lập chí phát nguyện nếu chẳng ngộ thì thôi, bằng ngộ thì phải thân chứng đến chỗ đại thôi nghỉ của người xưa mới thôi. Tâm này tuy chưa từng có một niệm lui sụt, nhưng tự biết công phu chưa được thuần nhất, có thể nói là chí nguyện lớn mà lực lượng nhỏ vậy.

Trước đây tôi có thống thiết thỉnh cầu Lão Sư Viên Ngộ khai thị, Lão Sư đã dạy cho tôi sáu đoạn pháp ngữ. Đoạn đầu tiên chỉ thẳng việc này, sau nêu ra hai công án “Núi Tu Di” (l) và “Buông xuống đi” (2) của Vân Môn và Triệu Châu. Ngài bảo suốt ngày âm thầm thường giữ nghi tình, lâu ngày ắt được ngộ nhập. Tâm Ngài từ bi thiết tha đến thế, ngặt vì tôi quá ngu dại.

Nay may mắn các việc trần duyên của tư gia đều xong cả, rảnh rang không bận việc gì, cũng chính là lúc tôi thống thiết tự cố gắng để thỏa mãn đền đáp lại cái chí nguyện ban đầu. Nhưng còn hận chưa được gần gũi để nghe lời Ngài dạy bảo.

Một đời bê bối đã cặn kẽ trình bày, chắc Ngài có thể soi thấu được tâm này, ngưỡng mong nhận được lời răn nhắc.

Hàng ngày tôi phải dụng công như thế nào, ngõ hầu chẳng lạc vào lối khác, ngay thẳng khế ngộ tự tánh?

Nói ra như thế cảm thấy rất hổ thẹn, nhưng tỏ lòng thành thật chẳng dám giấu giếm. Xin Ngài lượng tình thương xót cho.

Kính bái.

GHI CHÚ (l): Có vị tăng hỏi Vân Môn: “Chẳng khởi một niệm có lỗi hay không?” Sư đáp “Lỗi bằng núi Tu Di”.

(2): Có vị tăng hỏi Triệu Châu: “Lúc một vật chẳng đem đến thì thế nao?” Sư đáp: “Buông xuống đi”.

THƯ ĐÁP

I

Theo thư ông đã trình bày, từ ấu niên cho đến lúc làm quan, ông đã từng tham lễ các bậc đại tông sư, thời tráng niên ông bị khoa cử, hôn nhân, quan chức chi phối, lại bị các sự hiểu biết và thói quen cấu xa thắng thế nên công phu chưa thể thuần nhất được, và ông cho đó là một cái tội lớn. Ông lại hay thiết tha nghĩ đến thế gian vô thường, các pháp hư huyễn, không có chút gì gọi là vui mà chuyên tâm muốn tham cứu một đoạn đại sự nhân duyên này.

Như thế các điều đó rất hợp lòng tôi.

Song đã là kẻ sĩ, sống nhờ lộc Vua thì khoa cử, hôn nhân, quan tước là những điều ở thế gian không ai tránh khỏi, cũng không phải là cái tội của ông. Vì một chút tội nhỏ mà sanh lòng lo sợ lớn, nếu chẳng phải do nhiều kiếp từ vô thủy đến nay đã từng thân cận bậc Thiện Tri Thức chân chánh, huân tập sâu xa chủng trí Bát Nhã thì đâu được như thế. Nhưng điều mà ông cho là cái tội lớn đó, hiền thánh cũng chẳng tránh được. Song, đã biết đó là pháp hư huyễn, chẳng phải cứ cánh, mà hồi tâm vào trong cửa này, dùng nước trí Bát Nhã (nghi tình) rửa sạch cấu nhiễm, ngay dưới chân cắt đứt tất cả tâm phan duyên không cho tương tục nữa là đủ rồi, không cần nhớ trước nghĩ sau vậy. Đã nói hư huyễn thì lúc làm cũng huyễn, lúc thọ cũng huyễn, lúc mê cũng huyễn, lúc giác cũng huyễn, quá khứ hiện tại vị lai thảy đều là huyễn. Hôm nay biết lỗi thì dùng thuốc huyễn để trị cái bệnh huyễn. Nếu bệnh lành ắt thuốc cũng bỏ, người thì vẫn y như củ, chỉ là người xưa kia thôi (l). Nếu đặt ra có người thật, có pháp thật, ấy là kiến giải của tà ma ngoại đạo vậy. Mong ông hãy suy xét kỹ!

GHI CHÚ: (l) Bệnh là mê, hết bệnh là ngộ, ngộ rồi mà chẳng trụ nơi ngộ nên nói đồng như chưa ngộ, nghĩa là vẫn như người thuở xưa vậy.

Chỉ cần tham mãi như thế thì luôn luôn ở trong thắng tịnh. Nhất là không được quên hai công án : “Núi Tu Di” và “Buông xuống đi”. Chỉ cần trong tâm chân thất tham cứi đi! Việc đã qua không cần lo sợ, cũng không cần suy nghĩ, vì suy nghĩ, lo sợ đều là chướng đạo.

Chỉ cần phát đại thệ nguyện được gặp bậc Thiện Trí Thức, ngay dưới một lời liền dứt sanh tử, chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nối huệ mạng Phật hầu đền đáp thâm ân to tát của chư Phật.

Nếu như thế thì lâu ngày không có lý gì mà không ngộ. Phải biết Thiện Tài Đồng Tử lúc ở trước Ngài Văn Thù phát tâm trải qua một trăm mười thành, tham vấn năm mươi ba vị Thiện Tri Thức, sau cùng đến chỗ Đức Di Lặc, trong khoảng búng ngón tay tức thì quên hết các pháp môn đã đắc từ các bậc Thiện Tri Thức trước (nghĩa là ngộ). Lại y theo lời Đức Di Lặc dạy, nghĩ muốn thân cận Ngài Văn Thù. Ngay lúc ấy Ngài Văn Thù từ xa duỗi cánh tay mặt qua một trăm mười do tuần đến xoa đầu Thiện Tài và bảo: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nếu lìa tín căn thì tâm yếu kém, lo âu, ăn năn, công hạnh chẳng được đầy đủ, lui sụt sự cần mẩn tinh chuyên. Đối với một thiện căn tâm sanh trụ trước, được ít ở một ít công đức bèn cho là đủ là chẳng khéo phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện tri thức nhiếp hộ, cho đến chẳng thể biết rõ pháp tánh như vậy, chỉ thú như vậy, pháp môn như vậy, sở hành như vậy, cảnh giới như vậy. đối với những năng lực như cái biết cùng khắp, cái biết đủ thứ, cái biết triệt để, thấu triệt thâm sâu, diễn giải, phân biệt, ngộ giải, chứng đắc, thảy đều chẳng được”.

Ngài Văn Thù dạy Thiện Tài như thế, Thiện Tài ngay dưới lời nói này liền thành tựu vô lượng pháp môn, đầy đủ vô lượng quang minh đại trí, vào cửa Phổ Hiền. Ở trong một niệm thấy hết các vị thiện tri thức số nhiều như vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới và được thân cận, cung kính, cúng dường, thọ giáo, được trí “niệm chẳng quên”, trang nghiêm giải thoát. Nơi một lỗ chân lông của Ngài Phổ Hiền, siêu việt số thế giới cõi Phật nhiều như vi trần, bất khả thuyết, bất khả thuyết, đồng như Phổ Hiền, đồng như chư Phật, cõi đồng, hạnh đồng và giải thoát tự tại cả thảy đều đồng, không hai không khác. Lúc ấy, mới có thể chuyển ba độc tham, sân, si thành ba tụ tịnh giới (l), chuyển sáu thức thành sáu trần thông, chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển vô minh thành đại trí. Những điều kể trên chỉ ở tại một niệm chân thật cuối cùng của đương nhân mà thôi.

GHI CHÚ:

(l) – Ba tu tịnh giới:

1- Nhiếp Luật nghi giới.
2- Nhiếp Thiện pháp giới.
3- Nhiều ích hữu tình giới.

Như thế, Thiện Tài ở chỗ Đức Di Lặc trong khoảnh khắc búng ngón tay còn có thể bỗng quên tam muội sở chứng từ của các thiện tri thức, huống là những ác nghiệp, tập khí hư ngụy từ vô thủy ư! Nếu cứ cho các tội đã làm khi trước là thẫt thì cảnh giới trước mắt hiện nay cũng phải thật có, cho đến quan chức, phú quí, ân ái thảy đều là thật. Đã là thật thì địa ngục, thiên đàng cũng là thật, phiền não vô minh cũng là thật, người tạo nghiệp cũng thật, người chịu quả báo cũng thật, pháp môn đã chứng cũng thật. Nếu kiến giải như thế thì tận đời vị lai cũng không có người vào Phật thừa và các phương tiện của chư Phật chư Tổ trái lại trở thành vọng ngữ cả.

Theo lời ông nói, lúc gởi thơ nsày ông đã đốt hương lễ bái trước Phật, Tổ và từ xa hướng về am này cúi lạy rồi mới gửi. Ông thành tâm chì thiết đến thế, chúng ta tuy cách nhau không xa nhưng chưa có dịp giáp mặt đàm luận mà hôm nay ý trự nhiên nghĩ, tay tự nhiên viết, bất giác dông dài như thế này, đó chẳng qua là cũng xuất phát từ lòng chí thành, chẳng dám có một lời một chữ dối gạt nhau. Nếu như tôi dối ông là cũng tự dối vậy.

Tôi còn nhớ Thiện Tài tham kiến Bà La Môn tối tịch tịnh được “thành ngữ giải thoát”. Chư Phật, Bồ Tát quá khứ, hiện tại, vị lai đối với vô lượng Bồ Đề đã không lui sụt, hiện không lui sụt, sẽ không lui sụt, phàm hễ cầu điều gì cũng được thành tựu viên mãn là đều do chí thành mà được. Ông đã cùng với ghế trúc, bồ đoàn làm bạn, chẳng khác nào Thiện Tài gặp Bà La Môn Tối Tịch Tịnh. Lúc gởi thư đến Vân Môn (l) này, ông còn đối trước Phật, Tổ và từ xa lễ lạy rồi mới gửi, và tha thiết muốn nhận được thư của tôi, đó là sự chí thành tột bực vậy. Hễ tin nhau thì hãy thực hành công phu như thế, tương lai nhất định sẽ thành tựu viên mãn Vô Thượng Bồ Đề không sai vậy.

GHI CHÚ: (l)

Lời Ngài Đại Huệ tự xưng, vì Ngài trụ trì tại Chùa Vân Môn.

*

II

Ông xuất thân dòng phú quí mà chẳng bị phú quí trói buộc, nếu chẳng phải đời trước gieo trồng chủng trí Bát Nhã thì đâu thể được như vậy. Chỉ e ông quên ý này, bị thông minh lanh lợi chướng ngại, dùng cái tâm có sở đắc để cầu pháp vô sở đắc, nên chẳng thể ở nơi nguồn gốc cho một dao cắt đứt ngay đó thôi nghỉ như cổ nhân vậy. Bệnh nầy chẳng riêng sĩ phu trí thức mà tăng sĩ tham học lâu năm cũng mắc phải. Họ phần nhiều không chịu ở nơi ít phí sức làm công phu, chỉ dùng ý thức thông minh so đo suy nghĩ để hướng ngoại tìm cầu, chợt nghe thiện tri thức trước mặt khai thị về việc bổn phận vượt ra ngoài phạm vi ý thức thông minh so do suy nghĩ thì lại bỏ qua. Lại tưởng Cổ Đức có pháp thật cho người.

Ngài Nham Đầu (828-887) nói: “Buông vật là cao, chạy theo vật là thấp”. Phải biết cương yếu của Thiền Tông cần nên biết cú (ngữ). Thế nào là cú? Khi chẳng nghĩ điều gì là chánh cú, cũng gọi là lịch lịch (rõ ràng), cũng gọi là tỉnh tỉnh, cũng gọi là thế ấy. Đem cái “thế ấy” đó để phá tan tất cả thị phi nhưng mới nói thế ấy thì chẳng phải thế ấy rồi, cho nên gặp cú quét cú gặp phi cú quét phi cú, giống như một đống lửa hồng, đụng gì cũng cháy, đâu thể có chỗ dựa.

Sĩ phu trí thức thời nay phần nhiều đem suy nghĩ so đo làm nơi nương náu, mới nghe lời nói “thế ấy” bèn cho là lọt vào “ngoan không”. Khác chi chỉ vì nghi sợ ghe chìm mà đã vội nhẩy xuống nước trước để bị chết đuối. Thật rất đáng thương xót!

Gần đây, tôi có đến Giang Tây gặp Lữ Cư Nhân, Cư Nhân từ lâu, đã lưu tâm đến Tổ Sư Thiền này và cũng mang cùng một bệnh ấy. Ông ta đâu chẳng phải là người không thông minh ư!

Tông Cảo tôi có hỏi ông: Ông sợ tôi rơi vào không, vậy ông có biết được người sợ đó là không hay là chẳng không? Thử nói xem!

Ông ta ngẩm nghĩ muốn tìm câu trả lời, lúc ấy tôi liền hét cho một tiếng, cho đến ngày hôm nay ông ta vẫn còn mờ mịt, dò xét mặt mũi chẳng được. Đó là vì trước kia đã ôm cái tâm cầu ngộ, tự làm chướng nạn, chứ chẳng do việc gì khác. Nay Ông hãy thực hành Công phu tham Thiền như thế, lâu ngày chầy tháng tự nhiên sẽ được đến nơi.

Nếu muốn đem tâm chờ ngộ, đem tâm chờ thôi nghỉ thì dù tham mãi đến Di Lặc hạ sanh cũng chẳng thể ngộ, cũng chẳng thể thôi nghĩ, trái lại càng thêm mê muội mà thôi.

Hòa Bĩnh Điền nói:

Thần quang bất muội
Vạn Cổ huy du
Nhập thử môn lai
Mạc tồn tri giải

Dịch nghĩa:

Thần quang chẳng phải sáng tối
Luôn luôn chiếu soi vạn cổ
Những ai muốn nhập cửa này
Cần phải quét sạch tri giải

Cổ Đức nói: “Việc này chẳng thể dùng hữu tâm cầu, chẳng thể dùng vô tâm đắc, chẳng thể dùng ngữ ngôn tạo, chẳng thể dùng im lặng thông”. Trên đây là những lời tha thiết bậc nhất để dạy bảo hậu học mà thường thường người tham thiền chỉ đọc qua rồi thôi, không chịu xét nét kỹ lưỡng xem đó là đạo lý gì. Nếu là người có chí khí, vừa nghe nói đến liền ngay đó đem bảo kiếm Kim Cương Vương chém một nhát đứt bốn sợi xiềng xích này (bốn sợi xiềng xích là hữu tâm, vô tâm, nói, nín) như vậy thì đường sanh tử đứt, đường phàm thánh cũng đứt, so đo suy nghĩ cũng đứt, đắc thất thị phi cũng đứt, dưới gót chân người ấy sạch trơn không còn gì để nắm. Há chẳng khoái thay! Há chẳng sướng thay!

***

(9)

THƯ ĐÁP LÂU KHU MẬT

Chẳng biết sau khi chia tay chỗ ứng duyên hàng ngày ông chẳng bị ngoại cảnh lôi kéo chăng? Đối với những văn kiện chất trên bàn làm việc có thể gạt qua một bên chăng? Khi gặp người tiếp vật có bị lay động chăng? Ở nơi tịch tịnh có nổi vọng tưởng chăng? Đối với tham thiền có tạp niệm xen vào chăng?

Phật nói:

Tâm chẳng vọng lấy pháp quá khứ
Cũng chẳng tham đắm việc vị lai
Ở nơi hiện tại vô sở trụ
Liễu đạt tam thế đều không tịch.

Việc quá khứ hoặc thiện hoặc ác chớ nên suy lường, suy lường thì chướng đạo. Việc vị lai chớ nên tính toán, tính toán ắt cuồng loạn. Việc hiện tại ở trước mắt hoặc thuận hoặc nghịch cũng chớ nên để ý, để ý thì trong tâm bị nhiễu loạn. Cuộc sống hàng ngày tùy duyên ứng phó, tất cả chỉ xem là tạm thời thì sẽ thích ứng tự nhiên.

Gặp cảnh giới nghịch còn dễ tu, gặp cảnh giới thuận mới là khó. Lúc nghịch ý ta chỉ cần một chữ nhẫn chốc lát liền qua được, lúc cảnh giới thuận thì thật là chẳng có chỗ để trốn tránh, vì cảnh giới thuận ý mình ham thích như nam châm hút sắt dính chặt một chỗ. Vật vô tình còn vậy huống là vô minh hiện hành toàn thân sống trong đó. Gặp cảnh giới này nếu chẳng có trí tuệ thì bất tri bất giác bị nó lôi kéo vào lưới ma, muốn tìm đường ra thật là khó. Cho nên bậc thánh xưa có nói: “Nhập được thế gian thì xuất thế gian không còn dư”, tức là đạo lý này vậy. Gần đây có một số người tu hành lạc mất phương tiện, luôn luôn nhận vô minh hiện hành là nhập thế gian, bèn đem pháp thế gian cưỡng cho là việc “xuất thế gian không còn dư”. Thật đáng thương xót! Duy Ma Cật có nói: “Phật vì những kẻ tăng thượng mạn mà thuyết pháp lìa dâm nộ si là giải thoát. Nếu những người không phải tăng thượng mạn thì Phật nói tánh dâm nộ si tức là giải thoát”. Nếu tránh được lỗi này thì ở nơi cảnh giới thuận nghịch chẳng có tướng khởi diệt, ấy mới lìa được tên gọi tăng thượng mạn. Như thế mới có thể cho là nhập được thế gian và xuất thế gian không còn dư. Những điều nói trên đều là chỗ Diệu Hỷ tôi đã từng trải qua, hiện nay cũng chỉ tu hành như thế. Mong ông thừa lúc cơ thể còn khẻo mạnh cũng nhập tam muội này.

(10)

KHAI THỊ KHÔNG HUỆ

Dù được thân tâm yên tịnh vẫn cần phải nỗ lực, chớ nên hướng vào chỗ yên tịnh mà sanh tâm thích thú. Trong giáo môn nói đó là hầm sâu giải thoát rất đáng sợ hãi. Cần phải như hồ lô xoay chuyển trên mặt nước, tự do tự tại chẳng bị dính mắc, vào dơ vào sạch chẳng ngại chẳng chìm, mới được ở dưới cửa thiền có chút phần thân cận. Nếu chỉ ôm chặt được “đứa bé không khóc” thì đâu có tác dụng gì!

(11)

KHAI THỊ NGHIÊM TỬ KHAM

Ngài Lâm Tế nói: “Nếu ngươi luôn luôn ngưng được cái tâm tìm cầu thì so với Phật Thích Ca chẳng khác”. Lời này chẳng phải dối người. Như Thất Địa Bồ Tát, cái tâm cầu Phật trí chưa đầy đủ còn bị gọi là phiền não. Thực là chẳng có chỗ để sắp đặt, dính mắc một chút vật gì bên ngoài cũng không được. Mấy năm trước có một vị cư sĩ họ hứa chỉ nhận được cái cửa bên ngoài, bèn gửi thư đến trình kiến giải rằng: “Ứng dụng hàng ngày nơi trống rỗng, chẳng có một vật để đối đãi, mới biết vạn pháp trong tam giới tất cả vốn là không có. Buông xuống hết thực là an lạc sung sướng”. Do đó ta khai thị cho một bài kệ rằng:

Chớ luyến chỗ thanh tịnh
Thanh tịnh khiến người mê
Chớ luyến chỗ sung sướng
Sung sướng khiến người cuồng
Như nước theo đồ đựng
Tùy vuông tròn dài ngắn
Buông xuống, không buông xuống
Lại xin suy nghĩ kỹ
Tam giới và vạn pháp
Có quê nào để về?
Nếu cứ chấp như thế
Việc này rất chống trái
Báo cho Hứa cư sĩ
Ngường nhà tự làm hại
Mở rộng thiên thánh nhãn
Chẳng cần sự mong cầu.

(12)

KHAI THỊ CHÂN NHƯ

Tâm chẳng tìm cầu, chẳng vọng tưởng, chẳng duyên các cảnh thì ngay chỗ nhà lửa trần lao này tức là chỗ giải thoát ra khỏi tam giới.

Phật chẳng nói sao: “Nơi tất cả cảnh vô y, vô trụ, vô phân biệt, thấy rõ pháp giới quảng đại an lập, liễu đạt tất cả pháp thế gian bình đẳng bất nhị nên Viễn Hành Địa Bồ Tát dũng sức trí huệ của mình tự động siêu việt tất cả nhị thừa, dù được cảnh giới Phật mà thì hiện trụ cảnh giới ma, dù siêu việt đạo ma mà hiện hạnh pháp ma, dù thị hiện hạnh đồng như ngoại đạo mà chẳng bỏ Phật Phát, dù thị hiện tùy thuận tất cả thế gian mà thường hành tất cả pháp xuất thế gian”. Đây là chân phương tiện trong nhà lửa trần lao vậy.

Người học Bát Nhã nếu bỏ phương tiện này tùy thuận trần lao, ắt phải bị ma nhiếp trì. Lại còn ở nơi cảnh tùy thuận gượng nói đạo lý rằng: “Phiền não tức Bồ Đề, vô minh tức đại trí”. Chân thì đuổi theo có, miệng thì đàm luận không, thật chẳng biết tư trách mình bị nghiệp lực lôi kéo, lại còn dạy người xóa bỏ nhân quả. Bọn này bị tà ma ác độc xâm nhập tâm căn, muốn ra khỏi trần lao cũng như tạt dầu để cứu hỏa. Thật đáng thương xót! Nên biết đã triệt ngộ rồi mới có thể nói: “Phiền não tức Bồ Đề, vô minh tức đại trí”. Trong diệu tâm vốn quảng đại, tịch diệt, trong sạch, sáng tỏ cũng như hư không chẳng có một vật gì có thể làm chướng ngại. Vậy thì chữ Phật cũng còn là vật bên ngoài, huống chi còn có vô minh, phiền não để làm đối đãi ư!

(13)

THƯ ĐÁP TỪ ĐÔN TẾ

Việc này tỏ rõ như ban ngàn, trong trẻo, sáng sủa, không biến, không động, không thêm, không bớt, chỗ tiếp xúc hàng ngày ở ngay mỗi người đều ứng hiện rõ ràng, nắm giữ nó thì không được, buông xả nó thì thường còn thênh thang vô ngại, bát ngát rỗng không, như trái hồ lô trên mặt nước, lôi kéo chẳng được, cột trói nó chẳng được. Các bậc đắc đạo từ xưa đến nay được nó rồi, vào trong biển sanh tử trồi lên hụp xuống toàn thể thọ dụng không thiếu, không dư, như chiết cây chiên đàn thì mỗi nhành đều là chiên đàn, vậy sanh tử trần lao từ đâu khởi. Lúc thu nhận kết quả lại dính mắc vào chỗ nào?

Đã không có chỗ dính mắc thì Phật là huyễn, pháp là huyễn, tam giới, thập nhị xứ, thập bát giới đều rỗng không. Đến được chỗ này thì một chữ Phật còn không dính dáng. Vậy Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn chỗ nào mà có? Nên Bố Đại Sĩ nói: “Sợ người sanh đoạn kiến, mới tạm lập giả danh”. Người học đạo không hiểu, cứ trong nhân duyên học đạo của cổ nhân cầu huyền cầu diệu, cầu kỳ lạ, tìm tri giải, chẳng thể “thấy trăng quên ngón” ngay đó một dao cắt dứt.

Cũng như ngài Vĩnh Gia nói:

Trong nắm tay không chấp có thật,

Tâm cảnh tương sanh vọng kiến lập.

Cứ ở trong trần lao vọng sanh kiến chấp, tự trói buộc mình Như Lai nói là kẻ đáng thương xót.

Hòa Thượng Nham Đầu nói: “Ngươi chỉ cần vô dục, vô y, tức là Phật”. Thực ra chỉ có một cục thịt do cha mẹ sanh, nếu một hơi thở không đến liền biến thành vật khác.

Ngoài cục thịt này ra đâu còn cái gì khác. Vậy lấy gì làm kỳ lạ, huyền diệu, lấy gì làm Bồ Đề, Niết Bàn, lấy gì làm Chân Như, Phật Tánh? Bậc sĩ phu trí thức muốn tham cứu việc này, không hướng theo thực tế, lại ở trên công án người xưa cầu tri cầu giải, dẫu cho tri cùng, giải tận, biết hết cả đại tạng giáo điển, khi ngày cuối cùng sanh tử đến thì một chút cũng dùng không được. Còn có một số người mới vừa nghe thiện tri thức kể việc này, lại đem tâm ý thức so sánh suy lường rằng: Nếu như thế chẳng phải lọt vào “không” sao? Đối với những người này, Diệu Hỷ bất đắc dĩ nói với họ: “Ông chưa từng được “không” lấy gì để sợ, như đi ghe chưa chìm đã vội nhảy xuống nước”. Thấy họ chưa hiểu nên tôi không tiếc khẩu nghiệp nói dài dòng thêm: “Cái sợ lọt vào không đó còn có “không” được chăng?”

Nghĩa “không” là hiển bày sự dụng: Mắt ông nếu chẳng không thì lấy gì để thấy sắc, tai ông nếu chẳng không thì lấy gì để nghe tiếng, mũi ông nếu chẳng không thì lấy gì để ngửi, lưởi ông nếu chẳng không thì lấy gì để nếm, thân ông nếu chẳng không thì lấy gì để cảm giác, ý ông nếu chẳng không thì lấy gì để phân biệt vạn pháp.

Phật nói: “Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô thập nhị xứ, thập bát giới, cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, và Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh, tất cả pháp của Phật thuyết và kẻ thuyết pháp này, kẻ nghe pháp này, kẻ thuyết ra như thế, kẻ thọ cái thuyết như thế, thảy đều chẳng có”. Được như thế rồi gọi là không ư? Gọi là bất không ư, gọi là Phật ư, gọi là Bồ Tát ư, gọi là Thanh Văn ư, gọi là Duyên Giác ư, gọi là Bồ Đề, Niết Bàn ư, gọi là Chân Như, Phật Tánh ư?

Nếu tự cho ta thông minh lanh lợi chẳng bị người gạt thì xin hướng vào chỗ này xem xét cho đúng. Nếu xem xét ra được thì ở trong am cũng như ở ngoài cửa, còn xem xét chẳng ra thì rất kỵ khoa trương nói lời quá lố. Kẻ đại trượng phu muốn tham cứu việc đại sự nhân duyên này cần phải không màng đến thể diện, tâm dũng mãnh đứng thẳng, chớ chiều theo tình cảm, đem chỗ nghi của mình dán lên trên trán, hàng ngày tự như thiếu nợ người muôn triệu, bị người đòi nợ đuổi theo, chẳng có gì để trả nợ, sợ bị người sỉ nhục, không muốn gấp cũng phải gấp, không muốn bận rộn cũng phải bận rộn, không việc gì lớn hơn việc này, như thế mới có phần xu hướng. Suốt ngày suốt đêm, lúc uống trà ăn cơm, lúc vui lúc giận, chỗ sạch chỗ dơ, chỗ vợ con tụ tập, chỗ tiếp khách, chỗ làm việc, chỗ con cái cưới gã, đều là thời tiết cảnh giác để làm công phu.

Xưa kia Lý Văn Hòa làm thừa tướng trong phú quí tham thiền được đại ngộ, Dương Văn Công làm quan chức hàn lâm tham thiền được ngộ, Trương Vô Tận đốc xứ tỉnh Giang Tây cũng tham thiền được ngộ, chỉ ba ông này đủ làm mô phạm “chẳng hoại tướng thế gian mà chứng thực tướng” vậy. Cần phải bỏ vợ con, từ quan chức, ăn mặc cực khổ, tránh náo động cầu vắng lặng, vào trong hang quỷ ngồi thiền như cây khô rồi mới được ngộ đạo?

Bàng Uẩn nói:

Hễ tự vô tâm nơi vạn vật

Đâu sợ vạn vật thường nhiễu quanh

Trâu sắt không sợ sư tử rống

Giống như người gỗ thấy con chim

Bản thể người gỗ vốn vô tình

Con chim gặp người cũng không sợ

Tâm cảnh như như chỉ thế này

Lo gì Bồ Đề đạo chẳng thành.

Ở trong trần lao thế tục được không quên việc sanh tử, dù chưa thể kiến tánh nhưng cũng gieo được hạt giống Bát Nhã thâm sâu, kiếp khác ra đời cũng ít phí sức, cũng không đến nỗi lưu lạc trong ác đạo, hơn người đắm nhiễm trần lao chẳng cầu giải thoát, cứ nói việc này không dễ gì. Người đời phần nhiều có kiến giải như thế, thực đáng thương xót!

(14)

KHAI THỊ TĂNG THÚC TRÌ

Cổ Đức nói: “Từ xưa nay vốn chẳng có pháp để cho người, chỉ vì người chỉ đường mà thôi”. Lại nói: “Hễ có sở đắc là chó sói kêu, vô sở đắc là sư tử rống”. Phật là người thông suốt, trong bốn mươi chín năm thuyết pháp hơn ba trăm sáu mươi hội, tùy căn tánh chúng sanh mà dẫn dắt họ, nên ở trong mười pháp giới giảng thuyết một âm, chúng sanh tùy loại mỗi mỗi đều được lợi ích. Ví như gió đông thổi qua một cái thì muôn ngàn bông hoa cùng rộ nở, Phật thuyết pháp cũng như thế. Nếu có ý nơi mười pháp giới để làm lợi ích cho là có ta thuyết pháp, cho là có chúng sanh được độ, vậy thành có ngã chấp rồi.

Như Xá Lợi Phất ở trên hội Bát Nhã hỏi Văn Thù rằng: Chư Phật có giác ngộ pháp giới chăng?

Văn Thù đáp: Không. Xá Lợi Phất! Chư Phật còn bất khả đắc thì làm sao có Phật mà giác ngộ pháp giới! Pháp giới cũng bất khả đắc thì làm sao có pháp giới cho chư Phật giác ngộ!

Xem qua sự vấn đáp của hai ngài thì đâu từng trụ vào chỗ nào. Từ xưa chư Phật chư Tổ thuyết pháp đều có thể cách như thế, chỉ vì con cháu sau này thất lạc tông chỉ, mỗi mỗi tự lập môn phái, tác yêu tác quái mà thôi.

(15)

THƯ ĐÁP HỨA THO NGUYÊN

Ông đủ lòng tin chân chánh, lập chí chân chánh, đó là nền tảng để thành Phật làm Tổ vậy.

Kẻ quê mùa này lấy hai chữ Trạm Nhiên đặt làm danh hiệu cho ông, như nước trạm nhiên (lóng trong) chẳng động thì hư minh tự chiếu, chẳng nhọc tâm lực. Pháp thế gian và xuất thế gian chẳng ngoài trạm nhiên, không mảy may sót lọt. Chỉ dùng cái ấn này ấn định hết thảy chỗ, không gì phải, không gì chẳng phải, mỗi mỗi đều giải thoát, mỗi mỗi đều minh diệu, mỗi mỗi đều chân thật, lúc dùng cũng trạm nhiên, lúc không dùng cũng trạm nhiên.

Tổ Sư nói: “Hễ có tâm phân biệt so đo cái tự tâm hiện lượng thì thảy đều là mộng”. Nếu tâm thức tịch diệt, chẳng có chút động niệm, gọi là chánh giác. Giác đã chánh thì hàng ngày trong mười hai thời thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, cảm giác, phân biệt, đi, đứng nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh thảy đều trạm nhiên, cũng chẳng tự khởi tưởng điên đảo, có tưởng, không tưởng thảy đều thanh tịnh. Đã được thanh tịnh, lúc động thì hiển bày cái dụng của trạm nhiên, lúc bất động thì quy về thể của trạm nhiên. Thể dụng tuy khác mà trạm nhiên là một, như chiết cây chiên đàn thì mỗi nhánh đều là chiên đàn.

Ngày nay có một bọn tà sư “đặt điều”, sự ngộ của họ chẳng thật cứ dạy người nhiếp tâm tĩnh tọa, ngồi đến bặt hơi thở. Bọn này thật đáng thương xót!

Ông hãy thực hiện công phu như lời tôi chỉ dạy. Kẻ quê mùa này có dạy ông như thế cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ, nếu thật có việc thực hiện công phu như thế tức là làm nhiễm ô ông. Tâm này vốn chẳng thực thể thì làm sao thu nhiếp được? Thu nhiếp rồi đặc ở chổ nào? Đã không có chỗ đặt thì vô thời, vô tiết, vô cổ, vô kim, vô phàm, vô thánh, vô đắc, vô thất, vô tịnh, vô loạn, vô sanh, vô tử, cũng không có cái tên trạm nhiên, cũng không có cái thể trạm nhiên, cũng không có cái dụng trạm nhiên, cũng không có người nói trạm nhiên, cũng không có người nhận lời nói trạm nhiên.

(16)

KHAI THỊ TRẦN MINH TRỌNG

Phật thuyết tất cả pháp
Vì độ tất cả tâm
Ta chẳng tất cả tâm
Đâu cần tất cả pháp.

Pháp vốn vô pháp, tâm cũng vô tâm, tâm pháp đều không, là tướng chân thật. Hiện nay người học đạo phần nhiều sợ lọt vào không, kiến giải như thế là lầm nhận phương tiện, cho bệnh là thuốc, rất đáng thương xót! Nên Bàng Uẩn nói: “Ngươi chớ sợ lạc vào không. Lạc vào không cũng chẳng phải xấu”. Lại nói:”Nguyện không những gì mình đã có, chớ nhận những gì mình đã không”. Nếu thấu rõ được lời này thì vô biên ác nghiệp vô minh ngay đó tan rã. Cả đại tạng giáo điển do Phật thuyết cũng chú giải câu này không được.

Hành giả nếu đủ lòng tin quyết định biết được có pháp đại giải thoát như thế, chỉ ở chỗ biết được đó “bật công tắc cho sáng” thì một lời của Bàng Uẩn với cả đại tạng của Phật thuyết chẳng hai chẳng khác, chẳng trước chẳng sau, chẳng xưa chẳng nay, chẳng thiếu chẳng dư, cũng chẳng thất có tất cả pháp, cũng chẳng thấy có tất cả tâm, mười phương thế giới mênh mông trống rỗng. Cũng chớ cho là không, nếu cho là không thì có kẻ thuyết không, có kẻ nghe thuyết không, có tất cả pháp để nghe, có tất cả tâm để chứng, đã có nghe có chứng thì trong có tâm năng chứng, ngoài có pháp sở chứng, nếu bệnh này chẳng trừ, giáo môn gọi là chấp “có ta thuyết pháp”. Cũng gọi là phỉ báng Phật-Pháp-Tăng. Như kinh nói: “Nếu chấp pháp tướng tức dính mắc ngã, nhân chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp phi pháp tướng cũng dính mắc ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”. Ở trên nói “trong có tâm năng chứng, ngoài có pháp sở chứng” tức là đạo lý này vậy.

Có một Phật tử tên Trần Thuần biết thân là vọng, biết pháp là huyễn, ở nơi mộng huyễn khán công án “con chó không Phật tánh”, bỗng khi rửa mặt “đụng nhằm lỗ mũi” (tỉnh ngộ) đã viết đến trình kiến giải về thiền như: “Cọp mới sanh ba ngày, sức mạnh đã đủ muốt con trâu”. Chỗ trình kiến giải của ông ấy tuy còn gơi dính mắc nhưng cơ bản đã chánh, dù đại pháp chưa rõ, cũng chỉ là cái bệnh của người mới nhập đạo mà thôi. Nếu được biết việc này rồi gạt qua một bên, lại đem diệu môn của chư Phật chư Tổ nhất thời cắt dứt, hướng về phía bên Oai Âm Vương để làm công phu, mới có thể ở nơi pháp được tự tại vậy.

Phật nói: “Nếu chỉ tán thán Phật thừa thì chúng sanh lặn hụp nơi biển khổ” Đã tin biết việc như thế, nên dùng sở chứng của mình để khuyếch sung thêm rồi mới chẳng bị pháp trói buộc, chẳng cầu pháp giải thoát, như thế cũng được, chẳng như thế cũng được, như thế chẳng như thế đều được. Phàm có ngữ cú, phàm có thọ dụng đều như “tráng sĩ xuất chiêu” chẳng nhờ tha lực, như tên đã lìa cung không thể trở về ấy chẳng phải cố tình mà vì pháp vốn như thế. Được đến chỗ này rồi mới có thể nói những việc vô thiện, vô ác, vô Phật, vô chúng sanh. Nếu đại pháp chưa rõ mà nói những lời như thế, e sợ đọa vào chỗ ngài Vĩnh Gia nói:

Trống rỗng không, xóa nhân quả

Mênh mênh mông mông chiêu tai họa.

Việc này nên biết.

Hễ được gốc chớ lo ngọn, huân tập lâu ngày thuần thục khỏi lo công phu chẳng thành khối. Gắng tham đi!

(17)

KHAI THỊ TRỊNH THÀNH TRUNG

Hiện nay người chưa rõ tâm địa thì phải nghi rằng. “Thế giới từ đâu sanh khởi? Sau này lại hướng chỗ nào mà tiêu diệt? Lại thế giới có trước hay là con người có trước?” Nếu nói thế giới có trước thì Cổ Đức chẳng nên nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Nếu nói con người có trước, vậy thế giới có trước vậy thế giới chưa có, con người cư trú ở chỗ nào? Như thế, nói thế giới có trước cũng không phải, nói con người có trước cũng không phải. Nếu đại pháp được rõ thì chẳng cần suy lường mà tự nhiên rõ ràng.

(18)

THƯ ĐÁP VƯƠNG ĐẠI THỤ

Chẳng biết sau khi từ biệt nhau hàng ngày ông thực hiện công phu như thế nào? Nếu như đã từng ở trên lý đánh được mùi vị, trong kinh giáo được mùi vị, trên lời nói Tổ Sư được mùi vị, chỗ mắt thấy tai nghe được mùi vị, chỗ đi đứng nằm ngồi được mùi vị, chỗ tâm nghĩ, ý tưởng được mùi vị thì tất cả mùi vị đó đều chướng ngại sự tham thiền. Nếu muốn thôi nghĩ triệt để thì hãy chớ màng đến những chỗ mùi vị đã được trước kia, lại hướng vào chỗ không thể mò bắt được, chỗ không có mùi vị, xem đó là cái gì? Nếu xem xét chẳng được, mò bắt chẳng được, càng thấy không có cán để nắm, ý thức, nghĩa lý đều chẳng thông, như gỗ đất, ngói đá…, khi ấy chớ nên sợ lọt vào không. Đây là chỗ buông thân xả mạng của hành giả. Lưu ý! Lưu ý!

(19)

THƯ ĐÁP LÝ TỰ BIỂU

Ông muốn Diệu Hỷ này viết thư khai thị cho ông chỗ cốt yếu thì ngay cái niệm cầu khai thị chỗ cốt yếu ấy đã là đút đầu vào chỗ trói buộc rồi. Chẳng nên trên đầu lại mọc thêm đầu, tuy nhiên có người hỏi thì chẳng thể không đáp. Xin ông hãy đem hết các thứ đã đắc được ngày trước như tự xem kinh giáo, thoại đầu, hoặc nhờ người dạy bảo khai thị, mà được mùi vị hoan hỷ, đều nhất thời buông hết, y như trước vẫn là trăm điều chẳng biết trăm điều chẳng hội, giống như đứa bé ba tuổi có thức tánh mà chưa biết dùng. Lại hướng vào chỗ trước kia chưa khởi một niệm cầu khai thị cốt yếu đó mà khán. Khán đi khán lại, cảm thấy càng không mùi vị, trong tâm càng không yên ổn, lúc ấy càng phải tiến lên. Chỗ này chính là “chỗ cắt đứt đỉnh đầu” của ngàn thánh (sắp ngộ). Thường thường người học đạo phần đông đến chỗ trước khi chưa khởi một niệm cầu khai thị cốt yếu đó mà khán. Khán đi khán lại, hốt nhiên như nằm mơ thức dậy, việc này không sai.

(20)

THƯ ĐÁP TRƯƠNG DƯƠNG THÚC.

Trong mọi hành vi của lão cư sĩ đều đã thầm hợp với đạo, như chưa thể đến được chỗ bùng vở cuối cùng. Nếu hàng ngày ứng duyên chẳng mất công phu, dù chưa được “ồ” lên một tiếng (kiến tánh) thì lúc lâm chung Diêm Vương còn phải chắp tay đầu hàng huống là một niệm tương ưng ư!

Diệu Hỷ tuy chưa đích thân gặp mặt, nhưng biết ông làm việc lớn nhỏ tùy nghi, không thái quá, không bất cập, như thế tức là chỗ hợp với đạo. Đến đây chẳng cần cho là trần lao, chẳng cần cho là Phật pháp. Phật pháp, trần lao đều là việc bên ngoài, cũng chớ nên cho là việc bên ngoài. Chỉ cần hồi quang phản chiếu xem những cái suy nghĩ kể trên từ đâu mà có? Lúc làm việc có hình thái gì ? Khi làm việc đã xong, thỏa mãn ý mình chẳng có thiếu sót, đang lúc ấy là nhờ ân lực của ai? Thực hiện công phu như thế như người học bắn lâu ngày chầy tháng tự nhiên bắn trúng đích vậy. Chúng sanh điên đảo mê mình mà theo vật, tham đắm một chỗ hương vị của dục lạc mà cam thâm chịu vô lượng khổ. Mỗi ngày lúc chưa mở mắt ra, lúc chưa bước xuống giường, lúc nửa thức nửa ngủ, tâm thức đã lăng xăng theo vọng tưởng trôi nổi rồi. Làm thiện tạo ác, tuy chưa phát lộ, nhưng lúc chưa bước xuống giường, thiên đường địa ngục ở trong tâm đã nhất thời thành tựu rồi, đâu cần đợi đến lúc phát ra.

Phật nói: “Tất cả các căn đều do tự tâm hiện ra. Thế giới, thân, tâm đều từ tướng vọng tưởng biến hiện như suối chảy, như giống mầm, như đèn đuốc, như gió thổi, như mây bay, biến đổi từng sát na, loạn động như khỉ vượn, ham hôi thối như ruồi, nhặng chẳng nhàm chán như gió thổi lữa. Tập khí hư ngụy từ vô thủy như cái bánh xe quát nước v.v…” Nếu hiểu thấu được bèn gọi là cái trí vô ngã vô nhân. Phải biết thiên đường địa ngục chẳng ở nơi khác, chỉ ở trong tâm người hành giả lúc nửa ngủ nửa thức, lúc chưa bước xuống giường, chứ không phải từ bên ngoài đến. Khi phát hay chưa phát, khi giác hay chưa giác đều cần phải tham cứu. Lúc tham cứu cũng chớ nên cố dùng sức cố dùng sức ắt phí sức vậy. Tam Tổ nói: “Ngưng động để trở về tịnh, cái ngưng ấy lại càng thêm động”. Cho nên hàng ngày trong trần lao, khi vừa biết dần dần ít phí sức tức là chỗ đắc lực của hành giả, chỗ thành Phật làm Tổ của hành giả, chỗ biến địa ngục thành thiên đường của hành giả, chỗ ngồi yên ổn của hành giả, chỗ ra khỏi sanh tử của hành giả, chỗ giúp vua trị nước của hành giả, chỗ bệnh nặng được lành của hành giả, chỗ để phước đức cho con cháu của hành giả. Đến chỗ này rồi nói Phật, nói Tổ, nói tâm, nói tánh, nói huyền, nói diệu, nói lý, nói sự, nói tốt, nói xấu, tất cả việc tương đối đều là việc bên ngoài. Những chuyện như thế còn thuộc bên ngoài, huống là làm những việc mà bậc thánh xưa thường quở sao? Làm việc tốt còn không cho là tốt, há lại cho làm việc không tốt ư? Nếu tin nổi lời này thì lời ngài Vĩnh Gia (665-713) nói:

Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền

Nói nín, động tịnh tự an nhiên.

Chẳng phải là lời nói dối vậy.

Hãy y theo đây thực hành chẳng bao giờ thay đổi thì dù chưa chứng ngộ, chưa thấy được bản lai diện mục của chính mình, nhưng chỗ lạ (nghi tình) đã thành quen, chỗ quen (tập khí) đã thành lạ rồi. Hãy ghi nhớ lấy!

LÝ LỊCH CỦA SƯ

Sư ba mươi bảy tuổi ngộ đạo. Ở chùa mười mấy năm. Khi trụ trì Kính Sơn thiền hội rất hưng thịnh, hạng nhất trong thời ấy. Kế đó, vì nghịch với người cầm quyền đương thời, bị đầy đến Hàng Dương mười năm rồi sau bị đày tiếp đến Mây Dương năm năm (chỗ sơn lam chướng khí không thích hợp cho người ở), nhưng tăng tục vẫn tấp nập tìm đến hỏi đạo. Sau này được ân xá, Sư về trụ trì Dục Vương hai năm, trụ trì Kính Sơn thêm bốn năm, rồi từ chức về hưu ở Minh Nguyệt Đường ba năm.

Ngày mười hai tháng bảy năm Quý Mùi, nhằm năm thứ nhất niên hiệu Long Hưng, Sư thị hiện có bệnh. Đến mồng chín tháng tám Sư từ giã tứ chúng rằng: “Ngày nai ta sẽ đi”. Đến canh năm, đích thân biên thơ tấu cho vua và cho cư sĩ Tía Nham. Thị giả Liễu Hiền xin ban cho bài kệ. Sư lớn tiếng hét:

Không có kệ thì chết không được sao? Rồi cầm bút viết:

Sanh cũng như thế
Chết cũng như thế
Có kệ không kệ
Có gì quan hệ.

Xong liệng bút tịch ngay. Sư thọ bảy mươi lăm tuổi, tọa năm mươi tám hạ. Toàn thân thờ trong tháp bên cạnh Minh Nguyệt Đường. Ngữ Lục của Sư gồm một trăm tám mươi quyển, theo Đại Tạng Kinh lưu hành khắp nơi.

***

(21)

THƯ ĐÁP LÝ BỈNH (tự Hán Lão)

PHỤ THƯ HỎI:

I

Bỉnh gần đây được vào thất thân cận, nhờ Ngài khích lệ và khai phá ám muội cho, bỗng có tỉnh ngộ.

Con tự xét căn cơ thấp kém, một đời học hỏi hiểu biết đều lọt vào tình thức (kiến chấp), buông cái nầy bắt cái kia như mở dây xích này lại buộc dây xích khác. Ngày nay nhờ Ngài bỗng được mở trói, vui mừng biết bao! Nếu chẳng phải Đại Tông Sư rủ lòng từ bi thì đâu được như thế.

Từ khi được mở trói thì mặc áo ăn cơm, dắt con bồng cháu mỗi mỗi vẫn y như nhưng tình cảm trói ngại đã quen và cũng chẳng cho là kỳ lạ. Ngoài ra, những tập khí xưa, nghiệp chướng cũ tự nhẹ bớt dần dần.

Lời dặn của Ngài con chẳng dám quên. Song nghĩ lại con mới được vào cửa đại pháp chưa thấu, ứng cơ tiếp vật gặp việc chưa thể vô ngại, nên con rất mong được Ngài dạy bảo thêm, khiến cho tiến tới để khỏi làm hổ thẹn giáo pháp của Ngài.

THƯ ĐÁP:

I

Đọc thư ông viết: “Từ khi mở trói mặc áo ăn cơm, dắt con bồng cháu mỗi mỗi y như cũ nhưng tình cảm trói ngại đã quên cũng chẳng cho là kỳ lạ. Ngoài ra những tập khí xưa nghiệp chướng cũ cũng tự nhẹ bớt dần dần”. Biết được ông như vậy, đọc đi đọc lại tôi cảm thấy rất hoan hỉ. Đây là học Phật có hiệu nghiệm vậy.

Nếu chẳng phải bậc đại trượng phu ngộ một cái liền siêu việt số lượng, thì chẳng thể biết nhà mình quả thật có cái diệu dụng chẳng thể truyền. Nếu không được như thế thì hai chữ NGHI, NGỘ trong Pháp môn, đến tận cùng vị lai cũng chẳng thể tiêu hoại. Dẫu cho miệng tôi bằng hư không, cây cỏ ngói đá đều phát ra ánh sáng trợ giúp tôi thuyết pháp cũng chẳng làm gì được, mới tin rằng việc nhân duyên này chẳng thể truyền, chẳng thể học, cần phải tự chứng tự ngộ mới đến triệt để. Ông nay nhất ngộ đã quên sở đắc thì đâu còn gì để nói nữa.

Phật nói:

Chẳng chấp ngôn thuyết của chúng sanh

Tất cả hữu vi đều hư vọng

Dù chẳng y theo lời ngôn ngữ

Nhưng cũng chẳng chấp vô ngôn thuyết.

Trong thư ông nói đã quên tình cảm trói ngại cũng chẳng cho là kỳ lạ, ấy là âm thầm phù hợp với lời Phật. Thuyết nầy gọi là Phật thuyết. Lìa thuyết này gọi là tà ma thuyết.

Sơn Tăng trước kia có đại nguyện: “Thà đem thân này thay tất cả chúng sanh chịu khổ địa ngục, chứ không bao giờ dùng miệng này lấy Phật pháp vị nhân tình mà làm mù mắt tất cả chúng sanh”.

Ông đã đến nơi điền địa này, tự biết việc này chẳng từ người khác mà được, vậy cứ y như trước đâu cần hỏi nữa. Đại pháp rõ hay chưa rõ? Ứng cơ ngại hay chẳng ngại? Nếu còn nghĩ vậy thì chẳng phải như trước rồi.

Trước kia thấy ông hoan hỉ quá nên chẳng dám nói trắng ra, e ngại kẹt trong lời nói. Nay sự hoan hỉ đã qua mới dám chỉ ra việc này. Ông được đến mức này chẳng phải là dễ nhưng vẫn cần phải sanh tâm hổ thẹn mới được.

Thường thường kẻ lợi căn thượng trí khi chứng đắc cảm thấy chẳng phí sức liền sanh tâm cho là dễ quá, chẳng chịu tu hành. Phần nhiều bị cảnh giới trước mắt lôi kéo đi, làm chủ chẳng được, lâu ngày dài tháng mê muội mà chẳng thể trở về. Đạo lực không thắng nghiệp lực thì nhất định sẽ bị bọn ma nhiếp trì. Lúc lâm chung cũng chẳng đắc lực. Hãy nhớ lấy cho.

Lời nói hôm trước: “Lý thì đốn ngộ, theo ngộ cùng tiêu. Sự thì tiệm trừ lần lần mới hết”. Đi đứng ngồi nằm chớ nên quên mất. Ngoài ra đủ thứ lời sai biệt của cổ nhân đều chẳng thể cho là thật cũng chẳng thể cho là giả. Lâu ngày thuần thục tự nhiên âm thầm khế hợp bản tâm vậy. Chẳng cần cầu kỳ lạ thù thắng nào khác.

Xưa kia hòa thượng Thủy Lạo hỏi Mã Tổ (709 – 788): Thế nào là ý của Tổ Sư từ Ấn Độ đến?

Tổ nói: Lại gần đây ta nói cho nghe.

Thủy Lạo vừa đến gần định để bái, bị Mã Tổ dùng chân đá nhào.

Thủy Lạo bất giác đứng dậy vỗ tay cười ha hả.

Tổ bảo: Người thấy đạo lý gì mà cười?

Thủy Lạo nói: Muôn ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, hôm nay bị đá một trận thì biết được nguồn gốc sát đáy.

Mã Tổ cũng không nói gì thêm.

Tuyết Phong (822-908) biết Cổ Sơn cơ duyên đã thuần thục. Một hôm Ngài bỗng chụp ngay ngực Cổ Sơn hỏi rằng: Cái gì vậy?

Cổ Sơn ngay đó liễu ngộ. Luôn cả cái tâm liễu cũng mất luôn chỉ mỉm cười và khoát tay mà thôi.

Tuyết Phong hỏi: Ông được đạo lý sao?

Cổ Sơn lại khoát tay nói: Hòa thượng! Đâu còn có đạo lý nào nữa.

Tuyết Phong liền thôi.

Thuở xưa, Thiền Sư Đạo Minh đuổi theo Tổ Huệ Năng đến Đại Du Lãnh để đoạt y bát. Ngài Huệ Năng để y bát trên tảng đá nói: Y này là biểu tín (vật tiêu biểu để làm tin), há có thể dùng sức tranh dành ư? Ông cứ lấy đi.

Đạo Minh tận sức giở lên không nổi mới kinh hãi thưa: Tôi nay cầu pháp chứ chẳng vì cầu y bát, xin hành giả khai thị.

Huệ Năng nói: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, ngay lúc ấy cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa?

Đạo Minh ngay đó đại ngộ, toàn thân xuất mồ hôi, rơi lệ đảnh lễ rằng: Ngoài mật ý mật ngữ kể trên, còn có ý chỉ nào nữa chăng?

Huệ Năng nói: Nay vì ngươi nói ra thì chẳng phải mật ý rồi. Ngươi nều tự phản chiếu diện mục mình thì mật ở bên ngươi. Nếu ta nói được thì chẳng phải là mật vậy.

Đem ba công án kể trên so với cái ngộ của ông, hay dở thế nào xin ông tự đoán xem. Đâu còn có đạo lý kỳ lạ gì khác nữa. Nếu còn có cái khác thì chẳng thể gọi là ngộ rồi. Chỉ cần biết làm Phật, chớ đừng lo Phật chẳng biết nói. Xưa nay những người đắc đạo, tự mình đã viên mãn, đều dùng cái của mình sẳn có tùy cơ tiếp vật như gương sáng trên đài, ngọc sáng trong tay, Nam đến thi hiện hình Nam, nữ đến thì hiện hình nữ, mà chẳng cần tác ý vậy. Nếu có tác ý ắt có pháp thật cho người rồi. Ông muốn thấu rõ đại pháp ứng cơ vô ngại, hãy cứ vẫn y như trước, chẳng cần hỏi người, lâu ngày sẽ tự gật đầu vậy. Lời tôi nói khi chia tay xin chép lại để cạnh chỗ ngồi. Ngoài ra chẳng có lời khác để thuyết. Dẫu có thuyết, đối với bổn phận của ông cũng thành lời thừa rồi. Nói lòng vòng nhiều quá, nay tạm gạt qua một bên đi.

PHỤ THƯ HỎI:

II

Vừa được lời đáp khai thị đã thấu ý chỉ thâm sâu. Bỉnh tự thấy có ba điều hiệu nghiệm. Một là gặp việc nghịch thuận tùy duyên ứng phó, chẳng lưu lại trong lòng. Hai là tập khí lâu đời chẳng cần dứt trừ mà tự nó nhẹ dần dần. Ba là đối với công án của Cổ Đức trước kia cảm thấy mờ mịt, nay lại thấy rõ ràng, không còn ám muội nữa.

Thư trước nói đại pháp chưa rõ là vì sợ rằng được ít cho là đủ nên muốn được khuyếch sung (mở rộng) thêm, chứ đâu dám cầu kiến giải thù thắng nào khác. “Tẩy trừ tập khí” hiện hành, lúc ấy chẳng phải không! Lời dạy của Ngài, con rất khâm phục.

THƯ ĐÁP:

II

Được thơ sau thấy có tiến thêm, chẳng biết gần đây được tùy duyên phóng khoáng, như ý tự tại chăng? Thức ngủ, nhị biên được như một chăng? Chỗ “vẫn y như cũ” có dời đổi chăng? Tâm sanh tử còn tương tục chăng?

Chỉ cần tẩy sạch làm phàm tình, thực chẳng có thánh giải khác. Ông đã được ngộ, khai mở chánh nhãn, tin tức sở đắc xưa bỗng quên mất thì đắc lực hay chẳng đắc lực như người uống nước lạnh nóng tự biết vậy. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày nên y theo lời dạy của Phật: “Một là tu tập trừ các trợ nhân; hai là chơn tu nạo sạch chánh tánh (tánh dâm dục) (l); ba là tinh tấn xoay ngược hiện nghiệp”. Đây là chân phương tiện trong vô phương tiện, chân tu chứng trong vô tu chứng, chân thủ xả trong vô thủ xả của người xong việc (đã ngộ).

Cổ Đức nói: “Lớp da đã lột hết, chỉ còn một chân thật”. Cũng như nhánh lá của cây chiên đàn róc sạch hết, chỉ còn lại cây chiên đàn chân thật. Ấy là lý cùng tột của ba việc “trừ các trợ nhân, nạo sạch chánh tánh và xoay ngược hiện nghiệp” vậy. Ông thử nghĩ xem, lời nói như thế đối với bổn phận của người đã xong việc mặc dù như cây quạt trong mùa đông, song e miền Nam khí trời lạnh nóng bất thường nên thiếu nó chẳng được. Một tiếng cười.

GHI CHÚ: (l) chánh tánh (tánh dâm dục):

Chúng sanh đều dùng dâm dục làm chánh nhân để sanh ra sinh mạng nên gọi tánh dâm dục là chánh tánh.

Lúc Phú Quí Thân ở Tam Cù có thư đến hỏi đạo, nhân đó bất đắc dĩ tôi buông lời phương tiện chẳng ít. Nhưng ông ta vẫn kẹt nơi Mặc Chiếu, chắc chắn đã bị bọn tà sư dẫn vào hang quỉ.

Nay tôi được thư kế tiếp, biết ông ta vẫn còn chấp tỉnh tọa cho à là tốt. Ông ta cố chấp như thế làm sao tham được Tổ Sư Thiền? Lần này đáp thư, tôi không tiếc khẩu nghiệp, dài dòng thống thiết phá chấp cho ông ta, nhưng chẳng biết ông ta có chịu quay đầu lại khán câu thoại đầu hay không.

Bậc Thánh xưa nói: “Thà có thể phá giới lớn như núi Tu Di, quyết chẳng để bị tà sư huân một tà niệm nhỏ như hạt cải vào trong tàng thức, như đổ dầu vào trong bún thì không làm sao lấy ra được”. Ấy là tình trạng của ông ta vậy.

Nếu ông có gặp ông ta thì hãy đọc thử thư tôi đáp cho ông ta nghe. Theo đó mà làm phương tiện cứu vớt ông ta. Trong Pháp Tứ Nhiếp của Bồ Tát, đồng sự nhiếp là mạnh nhất, ông nên khai triển pháp môn này khiến ông ta tăng cường lòng tin “Tin tự tâm”, như vậy chẳng những tiết kiệm được một nửa sức Sơn Tăng, mà cũng khiến ông ta chịu xa lìa hang ổ cũ vậy.

(22)

THƯ ĐÁP GIANG THIẾU MINH

Đời người một trăm năm, thời gian có là bao. Ông xuất thân từ nhà nghèo hèn tiến lên quan chức, ấy là có phước nhất thế gian. Ông lại biết hổ thẹn hồi tâm hướng về đạo, học pháp xuất thế gian để thoát ly sanh tử, ấy là người khéo lựa chọn nhất trên đời. Cần phải quyết tử dụng công phu, chẳng màng đến việc khác, chẳng để cho người khác chi phối, tự làm chủ cho mình. Chỗ cuối cùng được chứng tỏ rõ ràng mới là bậc đại trượng phu đã xong việc thế gian và xuất thế gian vậy.

Liên tiếp mấy ngày ông cùng với Lý Hán Lão đàm luận về đạo, lành thay! Lành thay! Cho ông ta là đã dứt được tâm dong ruổi tìm cầu, đến chỗ “đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt”, ngay chỗ muôn ngàn sai biệt thấy được chân tay cổ nhân, chẳng bị phương tiện văn tự của cổ nhân trói buộc. Sơn Tăng thấy ông ta như thế chẳng hề bảo ông ta một chữ, vì e làm trở ngại ông ta. Đợi khi ông ta muốn nói chuyện với Sơn Tăng, lúc ấy mới cùng ông ta giải rõ việc này. Chứ chẳng phải ngưng luôn đâu. Người học đạo nếu tâm tìm cầu chẳng dứt thì dẫu có cùng họ giải rõ việc này cũng vô ích, vì họ là kẻ ngu si cuồng loạn chạy ở vòng ngoài.

Cổ Đức nói: “Gần gũi người lành như đi trong sương móc, tuy chẳng ướt áo nhưng cũng được thấm nhuần”. Ông thường qua lại hầu chuyện với Lý Hán Lão, tôi rất mong, rất mong!

Ông chớ nên đem lời dạy của Cổ Đức ra bày đặt bậy bạ. Như Nam Nhạc nói với Mã Tổ rằng: “Ví như trâu kéo xe, nếu xe chẳng đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?” Mã Tổ nghe xong ngộ ngay. Về mấy lời này, Tông Sư các nơi chẳng hội được, lại đoán mò bậy ba, dù thuyết pháp như sấm sét cũng chỉ là hiểu theo lời nói. Ấy là phỉ báng Tổ Sư. Xem thư ông gửi Châu Phong, ông tự ý đặt điều chú giải cho Như Lai Thiền là Tổ Sư Thiền, Sơn Tăng đọc qua bất giác bật cười.

Bài tụng gửi đến kỳ này xem kỹ thấy khá hơn hai bài tụng trước, nhưng từ nay hãy ngưng hẳn, nếu cứ tụng đi tụng lại mãi thì đến chừng nào mới xong. Như Lý Hán Lão, ông ta há chẳng biết làm kệ tụng sao, tại sao ông ta không làm một chữ? Vì là người biết pháp nên sợ phạm pháp mà thôi! Ông ta ngẫu nhiên lộ ra một đầu sợi lông thì tự nhiên gãi nhẳm chố ngứa của Sơn Tăng. Như câu “gặp người khắp nơi, gạt trước mặt” trong bài tụng Xuất Sơn Tướng, đáng làm thuốc điểm nhãn cho tòng lâm. Một ngày nào đó ông sẽ tự thấy, chẳng cần Sơn Tăng nói trắng ra.

Lược giải:

“Gặp người khắp nơi, gạt trước mặt”

Cồ Đức nói: “Người học chẳng thấy được ý của chư Tổ thì phải bị chư Tổ lừa gạt. Cũng như người không qua được sông hồ thì bị sông hồ chướng ngại vậy”.

Gần đây, tôi thấy ông bỗng nhiên thay đổi và rất nỗ lực về việc này, nên tôi viết thơ này hơi dài dòng.

(23)

THƯ ĐÁP PHÚ QUÍ THÂN

I

Lúc tuổi trẻ ông đã biết phát lòng tin hướng đến Tổ Sư Thiền, nhưng về tuổi già bị tri giải làm chướng nên chưa có chỗ ngộ nhập, ngày đêm mong muốn biết phương tiện thể cứu đạo này. Ông đã có lòng chí thành, tôi đâu dám từ nan.

Theo lời thỉnh của ông, tôi nói ra ít lời sau đây. Chỉ cái tâm cầu ngộ nhập này tức đã là tri giải chướng đạo rồi, lại còn tri giải nào làm chướng ngại ông nữa? Thực ra gọi cái gì là tri giải ? Tri giải từ đâu mà dến? Người bị chướng ngại là ai? Chỉ một câu này điên đảo có ba:

Một là tự nói bị tri giải làm chướng.

Hai là tự nói chưa ngộ, cam đành làm kẻ mê.

Ba là ở trong mê đem tâm chờ ngộ.

Ba thứ điên đảo này là cội gốc sanh tử. Cần phải chớ sanh một niệm, ngay đó tâm điên đảo bặt, mới biết không có mê để phá trừ, không có ngộ để chờ đợi, không có tri giải để làm chướng, như người uống nước lạnh nóng tự biết, lâu ngày tự nhiên không còn những kiến giải này. Chỉ cần nhìn ngay chỗ cái tâm hay biết tri giải đó khán xem còn chướng được hay không? Trên cái tâm hay biết tri giải đó còn có những kiến giải kể trên hay không?

Từ xưa, các bậc đại trí huệ, đều lấy tri giải làm bè bạn, dùng tri giải làm phương tiện. Ở trên tri giải thực hành lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự như rồng gặp nước, như hổ ở núi, chẳng bao giờ lấy đó làm bực dọc. Chỉ vì các Ngài biết được chỗ khởi của tri giải. Đã biết được chỗ khởi của tri giải thì chính tri giải này tức là nơi giải thoát, cũng là chỗ thoát sanh tử. Đã là nơi giải thoát sanh tử thì cái tri giải đó bản thể vốn là tịch diệt. Tri giải đã tịch diệt thì kẻ năng biết tri giải đó chẳng thể không tịch diệt. Vậy Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật tánh cũng chẳng thể không tịch diệt. Theo lý này suy ra thì còn có vật nào có thể làm chướng ngoại, và nhằm vào đâu để cầu ngộ nhập.

Phật nói:

Các nghiệp từ tâm sanh,
Nên nói tâm như huyễn.
Nếu lìa tâm phân biệt,
Ắt đường sanh tử tuyệt.

Tăng hỏi Hòa Thượng Đại Châu: Thế nào là Đại Niết Bàn?

Sư đáp: Chẳng tạo nghiệp sanh tử.

Tăng hỏi: Thế nào là nghiệp sanh tử?

Sư đáp: Cầu đại Niết Bàn là nghiệp sanh tử.

Cổ Đức nói: “Người học đạo có một niệm chấp thật sanh tử, tức là rơi vào ma đạo, một niệm khởi các kiến chấp tức sa vào ngoại đạo”.

Duy Ma Cật nói: “Chúng ma ưa sanh tử, Bồ Tát ở nơi sanh tử mà chẳng nhiễm, ngoại đạo ưa các kiến chấp, Bồ Tát ở nơi các kiến chấp mà chẳng động”. Như thế chứng tỏ người lấy tri giải làm bè bạn, dùng tri giải làm phương tiện, ở trên tri giải thực hiện lòng từ bình đẳng, ở trên tri giải làm các Phật sự, là người thực hành đúng theo lời dạy của Phật, Tổ. Tại sao? Chỉ vì bậc thánh liễu đạt thời gian tánh không, sanh tử Niết Bàn vốn là tịch diệt.

Người chưa đến được chỗ này chẳng nên nghe theo lời bậy bạ của bọn tà sự dẫn vào hang quỉ, ở đó nhắm mắt nổi vọng tưởng. Gần đây chánh pháp suy đồi, bọn này nhiều như mè như lúa, cũng như một người mù dẫn cả bọn mù cùng nhau vào hầm lửa. Thật đáng thương xót! Mong ông thẳng thắn chớ theo bọn này. Nếu theo bọn này, dù tạm thời giữ được cái xác thân này chẳng bị lay động, lại cho là đạo cứu cánh, nhưng tâm thức vẫn lăng xăng trôi nổi như bụi trần. Dẫu cho tâm thức tạm ngưng thì cũng như đá đè cỏ, vậy muốn đến chỗ cứu kính an lạc của Vô Thượng Bồ Đề làm sao mà được. Xưa kia, tôi cũng từng bị bọn này làm lầm, về sau nếu tôi không gặp được thiện tri thức chân chánh thì phải uổng qua một đời. Nay mỗi khi nghĩ đến, tâm không thể nhẫn được, nên chẳng tiếc khẩu nghiệp mà tận sức cứu vãn cái tệ đoan này.

Ngày nay, người biết quấy nếu muốn ngay đó lãnh hội cần phải nơi một niệm này được bùng vỡ, mới liễu thoát được sanh tử, mới gọi là ngộ nhập, nhưng không được giữ cái tâm chờ bùng vỡ. Nếu cứ giữ cái tâm chờ bùng vỡ thì không bao giờ bùng vỡ được. Chỉ cần đem những vọng tưởng như tâm điên đảo, tâm suy nghĩ phân biệt, tâm tham sống sợ chết, tâm tri kiến hiểu biết, tâm ưa tịnh chán động v.v… nhất thời buông xuống, ngay chỗ buông xuống đó khán công án :

“Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không?

Triệu Châu đáp: Không”.

Xem tại sao Triệu Châu nói “không”?

Một chữ KHÔNG này là lợi khí để đập tan những ác tri ác giác. Nhưng chẳng được dùng bộ óc tìm hiểu cho là có hay không, chẳng được cho là đạo lý, chẳng được dùng ý căn suy nghĩ tính toán, chẳng được hướng theo cái nheo mày nhướng mắt để lãnh hội, chẳng được hướng trên lời nói để so đo, chẳng được bỏ vào trong cái vỏ vô sự, chẳng được hướng chỗ đề khởi của Chư Tổ để hội ngộ, chẳng được theo văn tự để dẫn chứng. Chỉ cần suốt ngày đêm đi đứng ngồi nằm luôn luôn tự hỏi: “Con chó có Phật tánh hay không? Tại sao Triệu Châu nói “không”? Hằng ngày thử thực hiện công phu như thế xem, không bao lâu sẽ tự thấy hiệu nghiệm phần nào. Việc một bước ngàn dậm cũng có thể được vậy.

Cổ Đức nói: “Ý Tổ Sư ở đây rất linh động, không vật nào có thể hạn chế nó được. Nếu lìa cuộc sống hàng ngày mà có chỗ xu hướng khác thì cũng như lìa nước tìm sóng, càng tìm càng xa vậy”.

II

Được biết, những ngày gần đây ông lấy đại sự nhân duyên (công phu tham thiền) này làm đều tâm niệm, dũng mãnh tinh tấn thuần nhất không tạp, lòng tôi xiết bao vui mừng.

Ông có thể suốt ngày trong lúc làm việc, công phu đã được tương ưng chưa? Hai lúc thức và ngủ đã được nhất như chưa? Nếu chưa được thì không nên luôn luôn chìm đắm trong không tịch. Người xưa gọi đó là làm việc trong nhà quỉ dưới núi đen, công phu như thế đến tận đời vị lai cũng không có ngày thấu thoát.

Hôm qua được thư, tôi thầm nghĩ ông say đắm việc nhập định vắng lặng, đến khi hỏi Trực Các (bạn đồng tham) thì mới biết quả đúng như điều tôi tiên đoán.

Nói chung, người trôi lăn nhiều ở chốn thế gian, từ lâu đã dính chặt trần lao, bỗng nhiên được người chỉ bảo hướng vào chỗ tĩnh lặng làm công phu, chợt được trong tâm vô sự, liền nhận đó là cứu cánh an lạc. Chứ không biết là như đá đè cỏ, tuy tậm cảm thấy thanh tịnh, nhưng đâu ngờ gốc rễ vô minh vẫn còn, biết đến ngày nào mới chứng được tịch diệt viên mãn. Muốn được cái tịch diệt chân chánh hiện tiền cần phải ở trong sự sanh diệt lăng xăng nhảy một cái ra khỏi (tỉnh ngộ). Khi ấy chẳng động một mảy lông (chẳng cần tác ý) cũng có thể quậy nước sông dài thành tô lạc, biến đất cát thành vàng ròng, ứng cơ tiếp vật tự do tự tại, tự lợi, lợi tha việc nào cũng xong.

Bậc thánh xưa gọi đó là Vô tận tạng đà la ni môn, Vô tận tạng thần thông du hí môn, Vô tận tạng như ý giải thoát môn. Những việc này chẳng phải là bậc đại trượng phu thì đâu thể làm được. Nhưng cũng chẳng phải do tạo tác mà được, vì vốn là vật sẵn đủ trong tâm ta. Mong ông quyết tâm tinh tấn, nhất định sẽ đến chỗ này. Khi hoát nhiên đại ngộ, trong tâm rõ ràng như trăm ngàn nhật nguyệt, mười phương thế giới trong một niệm thấu rõ mà không có một mảy may nghĩ tưởng nào khác thì mới được cùng cứu cánh tương ưng. Nếu được như thế thì chẳng những đắc lực trên đường sanh tử mà ngày sau, khi ông được lên cầm quyền, lại còn có thể giúp vua cai trị hơn cả Nghiêu Thuấn. Điều này chắc chắn như chỉ tay trên bàn tay vậy.

III

Thư Ông nói: “Người sơ cơ được chút công phu tĩnh tọa cũng là khá”, lại nói: “Chẳng dám có kiến chấp về tĩnh lặng”. Phật nói: “Ví như có người bịt lỗ tai rồi cất tiếng la to, tự họ không nghe cũng tưởng người khác không nghe như họ vậy”. Thật chỉ tự làm chướng nạn mà thôi.

Người tham thiền nếu tâm sanh tử chưa vỡ, hằng ngày trong 12 thời mờ mờ mịt mịt như người chết hồn chưa tan, đâu có thì giờ rảnh để ý đến tĩnh lặng hay náo động?

Trên hội Niết Bàn, tên Quảng Ngạch buông đao đồ tể liền thành Phật, đâu phải là thực hiện công phu trong tĩnh lặng mà được. Ông ta há chẳng phải là người sơ cơ ư? Ông thấy việc này, cho rằng người đời nay chẳng có khả năng như vậy, rồi lại gán cho ông ấy là Cổ Phật thị hiện. Nếu có kiến giải như thế là do chẳng tin tự tâm, cam chịu làm người hạ liệt mà thôi.

Trong Thiền Tông ta chẳng luận kẻ sơ cơ hậu học, cũng chẳng luận người tiền bối lão tham. Nếu muốn chân thật yên tịnh, cần phải tâm sanh tử vỡ, chẳng do làm công phu trong tĩnh lặng. Hễ tâm sanh tử vỡ thì tự yên tịnh vậy. Điều bậc Thánh xưa gọi là phương tiện tịch tịnh chính lá cái này, chỉ tại bọn tà sư đời mạt pháp chẳng hội lời nói phương tiện của bậc thánh xưa đó thôi. Ông nếu tin được lời của Sơn Tăng, thử hướng ngay chỗ nào động khác câu thoại đầu xem, không kể ngộ hay không ngộ, chính ngay lúc tâm rối loạn hãy cứ đề câu thoại đầu hỏi mãi, khi ấy còn thấy tịnh hay không, còn thấy đắc lực hay không? Nếu thấy đắc lực thì chẳng cần buông xả gì cả. Khi tĩnh tọa chớ để hôn trầm và tán loạn. Nếu cảm thấy hai thứ bệnh này hiện tiền chớ nên dùng sức diệt trừ, chỉ cần đề câu thoại đầu hỏi tiếp thì ngay đó hai bệnh tự hết. Công phu lâu ngày mới biết chỗ ít phí sức chính là chỗ đắc lực, cũng chẳng cần làm công phu trong tĩnh lặng, ngay chỗ náo động này chính là công phu vậy.

Khi Lý Hán Lão mới gặp Sơn Tăng ở Tuyền Nam, thấy Sơn Tăng cực lực bài bác mặc chiếu tà thiền làm mù mắt người. Ông ta bất bình nửa nghi nửa giận, bỗng nghe Sơn Tăng nói câu thoại đầu “Cây bách trước sân”, ông ta hốt nhiên đập vỡ thùng sơn đen, ở trong một tiếng cười đã hoàn toàn xong việc (ngộ), mới tin lời của Sơn Tăng không một mảy may dối gạt, cũng chẳng phải tranh giành nhân ngã, liền đối trước Sơn Tăng sám hối. Ông ta hiện đang còn ở nơi ấy, mời ông đến đó hỏi xem có phải hay không.

Thượng Tọa Đạo Khiêm đã đi Phước Kiến, không biết đã đến đó chưa. Ông ấy tham thiền nếm nhiều cay dđắng, cũng đã từng mất hơn mười năm nhập khô thiền (tĩnh tọa như cây khô). Những năm gần đây, ông ấy mới được chỗ an lạc (ngộ). Khi gặp, xin hỏi thử ông ấy: “Phải thực hiện công phu như thế nào?” Trước kia ông ấy đã đi lầm đường tất sẽ thương xót kẻ lầm đường, tôi nghĩ rằng ông ấy sẽ thành thật thố lộ hết cho ông biết vậy.

 (24)

THƯ ĐÁP TRẦN QUÝ NHẬM

I

Thư ông tự nói căn tánh rất ngu độn mà muốn lưu ý đoạn đại sự nhân duyên này, nếu thật như vậy tôi sẽ mừng cho ông.

Hiện nay bậc sĩ phu phần nhiều đối với việc này (tham Tổ Sư Thiền) chẳng thể ngay đó thấu thoát, chỉ vì căn tánh quá linh lợi, tri kiến quá nhiều, vừa nghe Tông Sư mở miệng liền dùng bộ óc lãnh hội ngay, không phát khởi nghi tình nên vĩnh viễn không thể chứng ngộ. Lại không bằng kẻ độn căn, đầu óc đơn giản, không có nhiều tri kiến này nọ, nên được ngay nơi một cơ một cảnh hoặc một ngôn một cú hoát nhiên khám phá (đại ngộ). Cái ngộ này dù Đại Sư Đạt Ma có xuất hiện dùng trăm món thần thông muốn chướng ngại người này cũng chẳng được, chỉ vì người này không có đạo lý gì để chướng. Người căn tánh linh lợi trái lại, bị cái linh lợi làm chướng, chẳng thể dẹp ngay, phá ngay được. Đối với việc này, dẫu cho dùng thông minh linh lợi học được đi nữa thì trên việc bổn phận của chính mình (tham thiền) lại càng không đắc lực. Cho nên Ngài Nam Tuyền nói: “Ngày gần đây thiền sư rất nhiều mà không tìm ra một người si độn” là vậy. Ngài Chương Kỉnh nói: “Chí lý bặt lời, người đời chẳng biết, lại cưỡng tập việc khác, cho là công phu. Chẳng biết tự tánh vốn chẳng phải là cảnh trần, mà là cái môn đại giải thoát vi diệu, có cái giác chiếu soi không nhiễm không ngại, ánh sáng cùng khắp không gian thời gian, xưa nay chưa từng biến đổi, giống như mặt trời xa gần đều chi ếu, tuy đến các vật mà chẳng cùng tất cả hòa hợp. Diệu minh sáng tỏ chẳng nhờ tu tập, chúng sanh chẳng rõ nên chấp lấy cảnh tượng bên ngoài, giống như dụi mắt vọng thấy hoa đốm trên không, trải qua nhiều kiếp uổng tự lao nhọc. Nếu được phản chiếu thì bản thể tự tánh hiện khắp không gian thời gian, không thấy có người thứ hai, khi ấy hành vi tạo tác đều ở trong thật tướng”.

Ông tự nói căn tánh ngu độn, thử như thế phản chiếu xem cái biết ngu độn đó có ngu độn hay không? Nếu chẳng hồi quang phản chiếu mà chỉ giữ lấy cái ngu độn rồi tự sanh phiền não, thật là ở trên huyễn vọng chồng thêm huyễn vọng. Chỉ cần tin tôi, hễ biết được căn tánh ngu độn thì nhất định là không ngu độn. Tuy không chấp lấy cái ngu độn này mà cũng chẳng được bỏ cái ngu độn này để tham. Lấy, bỏ, lợi, độn tại người chớ chẳng tại tâm. Tâm này cùng với chư Phật ba đời một thể không hai, nếu có hai thì pháp chẳng bình đẳng vậy. Thọ giáo truyền tâm đều là hư vọng, cầu chân thật tìm thật càng thấy so le. Chỉ cần biết cái tâm thể vốn bất nhị thì quyết định chẳng còn ở trong phạm vi của lợi, độn, lấy, bỏ, ngay khi đó một dao cắt đứt dây trói như thấy mặt trăng quên ngón tay. Nếu còn chần chờ suy trước tính sau, ấy là trên “nắm tay không” mà sanh kiến giải chấp thật, trong pháp căn cảnh vọng lập méo mó, trong thân ngũ ấm vọng tự trói buộc, không biết đến bao giờ mới hết.

Những năm gần đây, có một bọn tà sư thuyết Thiền Mặc Chiếu, dạy người suốt ngày đêm mọi việc đều chớ màng đến, cứ thôi đi, nghỉ đi, im lặng không cho lên tiếng, e sợ lọt vào cảnh trước mắt (chấp cảnh). Thường thường sĩ phu bị thông minh linh lợi sai khiến nên phần đông ghét chỗ nào động, bỗng được bọn tà sư dạy bảo tĩnh tọa, cảm thấy ít phí sức, liền cho đó là đúng, lại chẳng biết cầu diệu ngộ, chỉ cho mặc chiếu là cùng tột. Tôi chẳng tiếc khẩu nghiệp ra sức cứu vãn cái tệ đoan này. Nay cũng có chút ít người biết quấy, xin ông hãy hướng đến chỗ nghi tình chẳng vỡ mà tham, đi đứng nằm ngồi chẳng được buông bỏ.

Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh hay không?

Triệu Châu đáp: Không.

Tại sao Triệu Châu nói “không”.

Một chữ KHÔNG này chính là một cây dao cắt đứt cái tâm nghi sanh tử. Cái cán dao này chính người đương sự tự cầm trong tay, bảo người khác hạ thủ giùm chẳng được, phải chính mình hạ thủ mới được. Nếu xả được tánh mạng thì mới có thể quyết liệt hạ thủ. Nếu chẳng xả được thì cứ ở chỗ NGHI chẳng vỡ mà tham cứu, bỗng nhiên một ngày nào đó dám chịu xả mạng thì ngay đó xong việc (kiến tánh). Khi ấy, mới tin rằng lúc tĩnh lặng tức là lúc náo động, lúc náo động tức là lúc tĩnh lặng, lúc nói tức là lúc nín, lúc nín tức là lúc nói, chẳng cần hỏi người, cũng tự nhiên chẳng bị bọn tà sư mê hoặc. Mong thay! Mong thay!

Thuở xưa Châu Thế Anh có lần gửi thư hỏi Ngài Chân Tịnh rằng: “Phật pháp thâm diệu, hằng ngày nên dụng tâm thể cứu như thế nào? Xin Ngài từ bi chỉ dạy”.

Chân Tịnh đáp: “Phật pháp huyền diệu không hai, nhưng nếu chưa đến chỗ huyền diệu thì có cao thấp đối đãi nhau. Nếu như đến được chỗ huyền diệu thì người ngộ tâm ắt biết đúng như thật tức là Tự tâm vốn đã thành Phật, tự tại như thật, an lạc như thật, giải thoát như thật, thanh tịnh như thật mà hàng ngày chỉ dụng tự tâm. Tụ tâm linh động, nắm được liền dùng, chớ hỏi nó là phải hay không phải, đem tâm suy nghĩ liền không phải vậy.

Tâm không suy nghĩ thì mỗi mỗi thiên chân, mỗi mỗi minh diệu, mỗi mỗi như hoa sen chẳng dính nước. Cái tâm thanh tịnh siêu việt tất cả, do mê tự tâm nên làm chúng sanh, ngộ tự tâm nên thành Phật, mà chúng sanh tức Phật, Phật tức chúng sanh, do mê ngộ nên có chúng sanh và Phật”.

Ngày nay, người học đạo phần đông chẳng tin tự tâm, chẳng ngộ tự tâm, chẳng được thọ dụng sự minh diệu của tự tâm, chẳng biết tự tâm vốn an lạc giải thoát, lầm cho ngoài tâm có thiền, có đạo, vọng lập kỳ lạ, vọng sanh lấy bỏ, tuy có tu hành mà rơi vào cảnh giới đoạn kiến của ngoại đạo và thiền tịch tịnh của nhị thừa, chỗ gọi là: “Tu hành sợ đọa hố đoạn thường”.

Nói kẻ đoạn kiến là đọan diệt bản tánh diệu minh của tự tâm, cứ ở ngoài tâm chấp không mà mắc kẹt vào thiền tịch tịnh.

Nói kẻ thường kiến là chẳng ngộ tất cả pháp không, chấp thật các pháp hữu vi thế gian cho là cứu cánh.

Bọn tà sư dạy sĩ phu nhiếp tâm tĩnh tọa, mọi việc chớ màng cứ thôi đi, nghỉ đi, há chẳng phải là đem tâm thôi tâm, đem tâm nghỉ tâm, đem tâm dụng tâm đó sao? Nếu tu hành như thế thì làm sao chẳng rơi vào cảnh giới đoạn kiến, thiền tịch tịnh của ngoại đạo và nhị thừa, làm sao phát hiện được cái huyền diệu của tự tâm nhiệm mầu sáng suốt, thọ dụng sự an lạc thanh tịnh giải thoát. Cần phải người đương sự tự chứng tự ngộ, tự nhiên chẳng bị lời nói của Cổ Đức xoay chuyển mà còn có khả năng chuyển được lời của Cổ Đức.

Như viên ngọc quý ma ni trong sạch vùi trong bùn sình, dù trải qua trăm ngàn năm cũng chẳng bị ô nhiễm vì bản thể của nó vốn tự trong sạch. Tâm này cũng vậy, khi mê dù bị trần lao mê hoặc mà bản thể tâm này chưa từng mê hoặc, như hoa sen chẳng dính nước vậy. Nếu bỗng ngộ tâm này vốn đã thành Phật, cứu cánh tự tại, an lạc như thật, các thứ diệu dụng cũng chẳng từ bên ngoài đến, vì nó vốn sẵn tự đầy đủ. Phật nói: “Không có pháp nhất định tên là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có pháp nhất định để cho Như Lai thuyêt”. Nếu xác định bản thể của nó thật có sự việc như thế thì lại chẳng đúng. Do sự bất đắc dĩ, nhân vì mê ngộ, lấy bỏ, mà nói ra đủ thứ đạo lý, ấy là lời phương tiện đối với người chưa đến chỗ huyền diệu đó thôi. Kỳ thật bản thể không có đạo lý nào.

Xin Ông hãy dụng tâm như thế này: Hàng ngày trong mười hai thời chẳng được chấp sanh tử Phật đạo là thật có, cũng chẳng được chấp sanh tử Phật đạo là thật không, chỉ cần khán câu thoại đâu, thiết yếu là chẳng nên dùng ý căn để suy lường, chẳng nên ở trên ngôn ngữ để tìm hiểu, chẳng nên ở chỗ nói năng để nhận lấy, cũng chẳng nên hướng vào chỗ “đá lửa điện chớp” để lãnh hội, chỉ cần đề cầu thoại đầu hỏi mãi, cũng chẳng được đem tâm chờ ngộ, chờ thôi nghỉ, nếu đem tâm chờ ngộ, chờ thôi nghỉ thì càng không dính dáng gì!

***

 

THƯ ĐÁP TRẦN QUÝ NHẬM

 II

Ông nói:”Sau khi được thư của Sơn Tăng, mỗi khi gặp náo động chẳng có chỗ trốn tránh, thường tự kiểm điểm mà chưa thấy công phu đắc lực”. Ông đâu biết ngay cái chỗ trốn tránh chẳng được đó đã là công phu rồi, nếu còn muốn kiểm điểm nữa lại càng xa xôi.

Thuở xưa, ngài Lão Hoa Nghiêm nói: “Phật pháp ở chỗ đi đứng nằm ngồi, chỗ uống trà ăn cơm, chỗ nói năng thăm hỏi, chỗ làm việc hàng ngày. Hễ khởi tâm động niệm lại chẳng đúng vậy”. Chính đương lúc ông trốn tránh chẳng được đó, rất kỵ khởi tâm động niệm để kiểm điểm.

Tổ sư nói:

Phân biệt nếu chẳng sanh
Hư minh tự chiếu soi.

Bàng Cư sĩ nói:

Hàng ngày việc không khác
Duy ta tự hài hòa
Mỗi mỗi chẳng lấy bỏ
Nơi nơi đừng chống trái
Gánh nước và bổ củi
Quan chức quý là ai?
Thần thông cùng diệu dụng
Núi non bặt trần ai.

Bậc thánh xưa nói: “Hễ có tâm phân biệt, so đo, thấy tự tâm có số lượng, thảy đều là mộng”. Xin hãy khẩn thiết ghi nhớ lấy!

Lúc trốn tránh chẳng được, không nên có tâm toan tính, lúc tâm chẳng toan tính thì hết thảy đều sẵn sàng, cũng chẳng cần mang đến lanh lợi hay ngu độn, việc lợi độn trọn chẳng dính dáng, cũng chẳng can hệ đến việc tịnh loạn. Chính đương lúc trốn tránh chẳng được, hốt nhiên đánh mất cái túi vải (ngộ), bất giác vỗ tay cười lớn. Nhớ lấy! Nhớ lấy!

Việc này nếu dùng một mảy may công phu thủ chứng thì như người lấy tay nắm bắt hư không, chỉ tự nhọc mà thôi. Lúc lao động thì cứ lao động, muốn tĩnh tọa thì cứ tĩnh tọa, nhưng chẳng nên chấp tĩnh tọa làm cứu cánh. Ngày nay bọn tà sư phần nhiều lấy tĩnh tọa mặc chiếu làm pháp cứu cánh gây hại người hậu học biết bao. Sơn Tăng chẳng sợ kết oán, tận sức bài xích Thiền Mặc Chiếu mong cứu vãn cái tệ đoan đời mạt pháp để báo ơn Phật.

(25)

THƯ ĐÁP TRIỆU ĐẠO PHU.

Thư ông gửi đến mỗi mỗi tôi đều biết hết.

Phật dạy: “Người phát tâm đều sẽ thành Phật”. Tâm này chẳng phải là tâm trần lao vọng tưởng thế gian, mà là cái tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nếu phát tâm này đều sẽ thành Phật.

Nho sĩ học đạo phần đông tự tạo ra chướng ngại là do không có lòng tin quyết định.

Phật nói:

Tin là gốc đạo, mẹ công đức.
Nuôi dưỡng tất cả các pháp thiện
Phá trừ lưới nghi thoát dòng ái
Hiển bày vô thượng đạo Niết Bàn.

Còn bảo:

Tin hay tăng trưởng trí công đức
Tin hay đưa đến quả Như Lai.

Trong thư, ông tự cho độn căn chưa thể triệt ngộ, tạm gieo hạt giống Phật trong tâm điền, lời này tuy thiển cận song cũng đã gieo nhân sâu xa, ông chỉ cần tin chắc tự tâm ắt không bị ai gạt.

Ngày nay, người học đạo thường thường ở chỗ nên hoãn lại gấp, chỗ nên gấp lại hoãn.

Bàng uẩn nói:

Ngay lúc rắn vào đáy quần vải
Còn hỏi Tông Sư thời tiết gì?

Việc hôm qua, hôm nay còn có chỗ không nhớ, huống là việc đã qua kiếp khác, đâu thể không quên mất ư? Nếu quyết muốn kiếp này được thấu triệt đến chỗ chẳng nghi Phật, chẳng nghi Tổ, chẳng nghi sanh, chẳng nghi tử, thì phải đủ lòng tin tự tâm, đầy đủ chí quyết định, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu. Thực hành công phu như thế nếu vẫn còn chưa thấu triệt thì lúc ấy mới có thể nói là độn căn. Bằng chưa gì hết mà tự nói: Tôi độn căn chẳng thể trong đời này triệt ngộ mà chỉ có thể gieo giống Phật để kết duyên thôi”. Đó là người không đi mà muốn đến. Thật hết sức vô lý!

Tôi thường nói với những người tin đạo này rằng: “Dần dần cảm thây trong cuộc sống hàng ngày chỗ ít phí sức chính là chỗ học Phật đắc lực vậy”. Chỗ đắc lực của mình, người khác chẳng biết được, muốn đem ra trình cho người xem cũng chẳng được. Lục Tổ nói với Đạo Minh rằng: “Nếu ông phản chiếu cái bản lai diện mục của chính mình thì mật ý đều ở bên ông vậy”. Mật ý đó là chỗ đắc lực hàng ngày. Chỗ đắc lực tức là chỗ ít phí sức vậy.

Việc trần lao thế gian buông cái này bắt cái kia vô cùng vô tận, trong bốn oai nghi chưa từng lìa bỏ, vì từ vô thủy đến nay đã kết duyên với nó rất sâu dầy, còn trí huệ Bát Nhã từ vô thủy đến nay cùng nó kết duyên thiển cận, nên khi chợt nghe bậc tri thức nói thì hình như cảm thấy khó hội. Nếu từ vô thủy đến nay duyên trần lao cạn, duyên Bát Nhã sâu thì đâu có gì khó hội. Chỉ cần chỗ sâu trước kia nay khiến cho cạn, chỗ trước kia cạn nay khiến cho sâu, chỗ lạ khiến cho quen, chỗ quen khiến cho lạ, vừa biết nổi niệm suy nghĩ việc trần lao cũng chẳng cần ra sức bài trừ, chỉ cần ngay chỗ suy nghĩ đó, nhè nhẹ đề lên câu thoại đầu thì không phí nhiều sức lại đắc lực vô cùng. Xin ông hãy tham cứu như thế, đừng đem tâm chờ ngộ, để cho nó bỗng nhiên tự ngộ đi.

Lý Hán Lão với ông mỗi ngày gặp nhau, ngoài việc đánh cờ, có còn nói đến việc này chăng? Nếu chỉ đánh cờ mà chưa từng nói đến việc này thì nên ngay chỗ thắng bại chưa phân hãy hất tung bàn cờ, lại hỏi ông ta đòi cho được một việc kia (thoại đầu). Nếu đòi chẳng được mới quả thực là kẻ độn căn. Thôi tạm bỏ qua việc này.

(26)

THƯ GỬI TRƯƠNG ÍCH CHI.

Chúng sanh hằng ngày hiện hành vô minh, nên hễ thuận với vô minh thì sanh hoan hỷ, còn nghịch với vô minh thì đâm ra phiền não. Phật, Bồ Tát chẳng phải thế, các Ngài lại dựa vào vô minh làm Phật sự. Vì chúng sanh lấy vô minh làm nhà cửa, nghịch với vô minh là phá nhà cửa của chúng sanh, nên Phật, Bồ Tát thuận với vô minh là để theo chỗ chấp trước của chúng sanh mà dẫn dụ họ.

Ngài Vĩnh Gia nói:

Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức pháp thân.

(Dịch nghĩa: Thật tánh của vô minh tức là Phật tánh, Sắc thân huyễn hóa này tức là pháp thân).

Là cái đạo lý này vậy.

(27)

THƯ GỬI TRIỆU SƯ TRỌNG.

Cái đạo lý này hướng lên trên sự việc tìm thì nhanh, còn nếu hướng xuống ý căn suy nghĩ tính toán thì càng cách xa vậy. Do đó, ông già Thích Ca trên hội Pháp Hoa chỉ độ được đứ bé gái tám tuổi, trên hội Niết Bàn chỉ độ được một gã đồ tể, trên hội Hoa Nghiêm chỉ độ được một đồng tử.

Xem cách thức thành Phật của ba người đó, họ có từng hướng ra ngoài để cầu chứng đắc, cực khổ siêng năng tu hành gì đâu? Phật cũng chỉ nói: “Nay ta vì ông bảo nhậm việc này”, chẳng hề hư dối vậy. Chỉ nói “vì người bảo nhậm” mà thôi, chứ chẳng nói có pháp cò thể truyền để cho ông hướng ra ngoài tìm cầu rồi sau đó mới thành Phật.

May mắn có được thể cách như thế, tại sao không tin? Ví như lập tức tin nổi, chẳng hướng ra ngoài tìm cầu, cũng chẳng chấp có chứng đắc ở trong tâm, thì bất cứ chỗ nào lúc nào cũng được giải thoát. Sao vậy? Vì đã không hướng ra ngoài tìm cầu thì trong tâm lặng lẽ yên tịnh, vì đã chẳng chấp có chứng đắc trong tâm thì ngoại cảnh u nhàn.

(28)

THƯ GỬI LÝ BÁ HÒA.

Sợ hãi sanh tử mà gốc nghi nhổ chẳng hết thì trăm kiếp ngàn đời trôi theo nghiệp mà thọ báo, trồi lên hụp xuống chẳng có lúc dừng. Tốt nhất là mạnh dạn một phen nhổ sạch gốc nghi, bèn có thể chẳng rời tâm chúng sanh mà thấy tâm Phật. Nếu có nguyện lực từ đời trước, gặp bậc Thiện tri thức chân chánh dùng phương tiện khéo léo dẫn dắt thì có gì mà khó!

Thấy chăng? Cổ Đức có nói: “Sông hồ chẳng có tâm làm chướng ngại người, Phật Tổ chẳng có ý gạt gẫm người. Chỉ tại đương nhân qua chẳng được, chớ chẳng nên nói sông hồ làm chướng ngại người. Ngôn giáo của Phật Tổ tuy chẳng gạt gẫm, song chỉ vì người học đạo nhận lầm phương tiện, ở trong một ngôn, một cú, cầu diệu cầu huyền, cầu đắc cầu thất, do đó mà thấu triệt chẳng được, chớ chẳng nên nói Phật Tổ gạt gẫm người. Như người mù chẳng thấy ánh sáng mặt trời mặt trăng là lỗi của người mù chớ chẳng phải lỗi của mặt trời mặt trăng”.

Đây là học cái đạo lìa tướng văn tự, lìa tướng phân biệt, lìa tướng ngôn ngữ này vậy.

***

ĐẠI HUỆ THIỀN SƯ GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ THIỀN MẶC CHIẾU

(Trích Từ Tục truyền Đăng Lục trong Đại Tạng Kinh)

GIẢI ĐÁP VỀ THIỀN MẶC CHIẾU CHO TRỊNH THƯỢNG MINH

Khi ĐẠI HUỆ THIỀN SƯ đang xiển dương Thiền Tông thì cùng thời ấy có một ông tự xưng Tôn Sư, thuyết pháp lấy MẶC CHIẾU im lặng để dạy người, khiến người như tro lạnh, như cây khô, nói rằng: pháp môn đó làm cho người tu thân tâm được ngưng nghỉ. Sư cho kiến giải như thế là lọt vào “hang quỷ” dưới núi đen, mà chẳng biết nếu con khỉ (tâm phan duyên) chẳng chết, tức là ý thức phân biệt chưa chết, thì làm sao ngưng nghỉ được. Sư thường bài xích rằng: “Tà sư MẶC CHIẾU THIỀN, đoạn dứt HUỆ MẠNG PHẬT, dù ngàn Phật ra đời chẳng cho sám hối”.

Một hôm, có một vị tên Trịnh Thượng Minh cầm một nén hương, tỏ ý phẫn nộ nói với Sư: “Minh có một nén hương chưa đốt, muốn thương lượng với Hòa Thượng một việc, cũng như mặc nhiên im lặng là chỗ được ngưng nghỉ hạng nhất trong pháp môn, tại sao Hòa Thượng lại hết sức phỉ báng; Minh nghi Hòa Thượng chưa đến được điền địa này, cho nên không thể tin nổi, như Phật Thích Ca nhốt mình trong phòng im lặng ba tuần lễ, há chẳng phải Phật mặc nhiên sao? Ba mươi hai vị Bồ Tát nói về pháp môn bất nhị, sau cùng Duy Ma Cật im lặng, Văn Thù tán thán, há chẳng phải Bồ Tát mặc nhiên sao? Tu Bồ Đề tĩnh tọa trong hang, há chẳng phải Thanh Văn mặc nhiên sao? Đế Thích gặp thấy im lặng mà rải hoa cúng dường, há chẳng phải là phàm phu mặc nhiên sao? Đạt Ma im lặng ngồi chín năm trong chùa Thiếu Lâm, há chẳng phải Tổ Sư mặc nhiên sao? Lỗ Tổ thấy Tăng liền quay mặt vào tường, há chẳng phải tôn sư mặc nhiên sao? Nguyên do gì mà Hòa Thượng lại hết sức bài xích, cho MẶC CHIẾU là tà phi (sai lầm)?”

Sư hỏi: ông có đọc qua Trang Tử không?

Đáp: Có.

Sư nói: Trang Tử nói “ngôn ngữ mà đầy đủ thì suốt ngày nói mà thấu ĐẠO, ngôn ngữ chẳng đủ thì suốt ngày nói mà thấu VẬT, đạo và vật đến chỗ cùng tột thì ngôn-ngữ hay im-lặng đều chẳng thể đạt đến, chẳng phải nghĩa của ngôn ngữ và im lặng có giới hạng. Tôi cũng chưa từng xem chú giải của Quách Tượng và các nhà chú giải khác, chỉ căn cứ theo ý tôi nói trắng ra cho ông biết về cái mặc nhiên này. Há chẳng thấy Khổng Tử một hôm trân trọng nói rằng Tăng Tử ơi, đạo ta chỉ một mà thấu suốt tất cả. Tăng Tử đáp dạ. Đồ chúng mới nghe được chữ dạ, bèn chấp chữ dạ này cùng gốc với trời đất, nhất thể với vạn vật, khiến cho đức của vua được vượt trên Đế Nghiêu, Đế Thuấn; khiến tướng quân thừa tướng, xây nước dựng nhà, cho đến đưa tay bước chân đều chẳng ra ngoài một chữ dạ này, nhưng kỳ thật thì không dính dáng gì cả. Ông đâu có biết cái đạo lý này! ấy là ngôn ngữ của Tăng Tử đầy đủ, ngôn ngữ của Khổng Tử đầy đủ. Đồ chúng chẳng lãnh hội được, lại hỏi tại sao vậy. Tăng Tử thấy họ lãnh hội chẳng được, bèn hướng vào nghĩa thứ nhì mà trả lời rằng đạo của Khổng Phu Tử chẳng thể không nói, cho nên nói đạo của Khổng Phu Tử chỉ là TRUNG và THỨ mà thôi (TRUNG là trung thành đối với cấp trên, THỨ là khoan hồng đối với cấp dưới, và đối với mọi người đều phải trung thứ như vậy)“.

Nói tóm lại, đạo và vật đến chỗ cùng tột chẳng ở trên ngôn ngữ, cũng chẳng ở chỗ im lặng; ngôn ngữ chẳng thể đạt đến, im lặng cũng chẳng thể đạt đến. Lời của ông còn chưa khế hợp với ý của Trang Tử, huống là muốn khế hợp với ý của Tổ Đạt Ma và Phật Thích Ca ư! Ông muốn lãnh hội cái nghĩa “chẳng phải ngôn ngữ, im lặng có giới hạn” của Trang Tử không? Ấy tức là Tổ Vân Môn cầm cây quạt lên nói “Cây quạt nhảy lên cõi trời, đụng nhầm lổ mũi Đế Thích, đánh một gậy cho con Lý Ngư trong biển, thì mưa xuống tầm tả”. Ông nếu lãnh hội được lời nói của Vân Môn, tức là lãnh hội được lời nói của Trang Tử, lời nói của Tăng Tử và lời nói của Khổng Tử vậy.

Minh ngay đó bít miệng. Sư nói: “ông tuy bít miệng mà tâm còn chưa phục, nhưng do đó được biết người xưa quyết định chẳng ngồi chỗ mặc nhiên là đã rõ ràng rồi. Ông vừa nói Phật Thích Ca tự nhốt mình trong phòng và Duy Ma Cật mặc nhiên v.v… Ông hãy xem thuở xưa có một vị tọa chủ (pháp sư) Tăng Triệu, lấy chỗ vô ngôn thuyết ấy nói ra cho người biết. Thích Ca nhốt kín trong phòng, Duy Ma Cật im lặng, Tu Bồ Đề tĩnh tọa trong hang, Đế Thích tuyệt thính rãi hoa cúng dường, ấy đều là lý với chân tánh dung hợp, nên miệng do đó mà im lặng, đâu phải chẳng có biện tài, vì biện tài không thể nói được, đây là lý với chân tánh thình lình đụng nhau, bất giác đạt đến chỗ không thể nói được. Mặc dù im lặng mà tiếng nói như sấm sét! Nên mới nói đâu phải chẳng có biện tài, vì biện tài không thể nói được vậy. Ở đây thông minh và biện tài của thế gian một chút cũng không dùng được, đến được chỗ này mới là chỗ buông thân xã mạng, cảnh giới này phải tự chứng tự ngộ mới được. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói:

Cung điện Như Lai chẳng phương sở,
Kẻ ngộ tự nhiên ở trong đó.

Đây là pháp môn đại giải thoát của chư thánh, vô lượng vô biên, vô đắc vô thất, vô mặc vô ngôn, vô khứ vô lai, trần trần (mọi vật) như vậy, sát sát (mọi nơi) như vậy, niệm niệm như vậy, pháp pháp như vậy, chỉ vì chúng sanh căn tánh ngu độn, chẳng đạt đến cảnh giới thánh hiền tam giáo, nên phân biệt cái này cái kia, mà chẳng biết cảnh giới này quảng đại mênh mông, lại hướng vào trong núi đen hang quỷ mặc nhiên tĩnh tọa, nên bị các bậc thánh sư mắng rằng mặc chiếu là hố sâu của giải thoát, đó là nơi đáng sợ hãi! nếu nhìn theo mắt đạo, tức là ngồi trong đao sơn kiếm thụ, chảo dầu sôi, lò lửa than. Những pháp sư giáo môn còn không bị mắc kẹt vào chỗ mặc nhiên, huống là hành giả tham Tổ Sư Thiền! Mà lại cho rằng hễ mở miệng là sai, kỳ thật không dính dáng gì cả“.

Minh bất giác đảnh lễ, Sư nói: Ông tuy đảnh lễ, nhưng còn có việc chưa xong.

Đến buổi tối Minh vào phòng, Sư hỏi: Tuổi ông năm nay bao nhiêu?

Đáp: Sáu mươi bốn.

Sư lại hỏi: Sáu mươi bốn năm trước, ông từ đâu đến nhà họ Trịnh đầu thai?

Minh bít miệng. Sư cầm cây gậy đuổi ra. Hôm sau lại đến phòng nói: Sáu mươi bốn năm trước chưa có Minh, tại sao Hòa Thượng hỏi Minh từ đâu đến?

Sư nói: Sáu mươi bốn năm trước chẳng lẽ đã ở nhà họ Trịnh? Nay trước mắt cái biết được nghe pháp, thuyết pháp sáng tỏ rõ ràng này lúc chưa sanh là ở chỗ nào?

Minh đáp: Không biết.

Sư nói: Ông đã không biết tức là “sanh đại”. Một đời chỉ được trăm năm, trăm năm sau ông muốn bay ra khỏi tam thiên đại thiên thế giới này, là phải đợi ông vào hòm rồi mới được, đến lúc ấy tứ đại ngũ uẩn nhất thời tan rã, có mắt không thấy vật, có tai không nghe tiếng, cái tâm bằng khối thịt này (bộ não) chẳng thể phân biệt được, cái thân mà lửa đốt, dao chém cũng chẳng biết đau, đến lúc ấy cái sáng tỏ rõ ràng này lại đi về đâu?

Đáp: Minh cũng không biết.

Sư nói: Ông đã không biết tức là “tử đại”. Cho nên nói vô thường nhanh chóng, sanh tử sự đại tức là lý này vậy. Ở chỗ này dẫu có thông minh cũng chẳng dùng được, có trí nhớ cũng chẳng dùng được. Tôi lại hỏi ông, ông bình thường hay làm đủ thứ văn chương, đến lúc lâm chung lấy câu văn nào để đối phó với sanh tử? Phải biết rõ ràng chỗ sanh từ đâu đến, chết đi về đâu mới được, nếu không tức là kẻ ngu (ngài Trung Phong nói dẫu cho biết chỗ đến chỗ về, nhưng cần phải tự chứng ngộ mới được).

Đến lúc ấy Minh mới khâm phục, mới biết chỗ mặc nhiên và vô ngôn thuyết ấy, tất cả đều sai lầm, bèn ra sức tham cứu, chẳng bao lâu được khai ngộ.

| Mục lục |

Page 5 of 5
Prev1...45
Thẻ: Thích Duy Lực
Cát và Đá – Hai người bạn

Lục Diệu Pháp Môn

Khai Thị Quyển 3 – Hòa Thượng Tuyên Hóa – Video

Thiền Sư Trung Hoa – Tập 1

Cát và Đá – Hai người bạn

Thiền Tông Đốn Ngộ

Khai Thị Quyển 3 – Hòa Thượng Tuyên Hóa – Video

Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca

Bài Tiếp
Cát và Đá – Hai người bạn

Trung Quốc: Một tu sĩ phát nguyện bế quan 5 năm

Để lại bình luận Cancel reply

No Result
xem toàn bộ kết quả

Xem nhiều gần đây

Phạn Ngữ/Hán Tạng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch

Ngôi nhà chết chóc bí ẩn ở Thái Bình – Kỳ 5 – Cả trăm nhà tâm linh bỏ chạy

Ngôi nhà chết chóc bí ẩn ở Thái Bình – Kỳ 5 – Cả trăm nhà tâm linh bỏ chạy

Phật Học Phổ Thông Quyển 1- HT Thích Thiện Hoa

Bát Quan Trai Giới – Phật Học Phổ Thông

Hành Trình Về Phương Đông

Hành Trình Về Phương Đông

Báo Ứng Hiện Đời – Tập 4 – P3

Báo Ứng Hiện Đời – Tập 4

Phật Học Cơ Bản – Tập Bốn

Kinh Tăng Nhất A Hàm Phẩm 28: Thanh Văn

Thienphatgiao.Org@2021
Tâm Buông Xả - Hết Phiền Não
Liên hệ, gửi bài → thienphatgiao.org@gmail.com

  • Trang chủ
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Tâm Linh
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
  • Học Thiền
  • Kinh
  • Luật & Luận
  • Ăn Chay
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
  • Kiến thức cơ bản
  • Sách Thiền
  • Sách video
  • Hỏi Đáp
  • Tổng Hợp
  • Diễn Đàn Xây Dựng
  • Tin Phiền Não
  • Nghiên cứu Phật học
  • Pháp thoại – Khai thị
  • Ủng Hộ Web/Donate

Nguyện đem công đức này - Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh - Đều trọn thành Phật đạo.

No Result
xem toàn bộ kết quả
  • Home
  • Đạo & Đời
  • Tin tức – Tổng Hợp
  • Bí ẩn – Khám phá
  • Luân Hồi và Nhân Quả
    • Luân Hồi
    • Nhân Quả
  • Học Thiền
    • Người mới học
    • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Đại Thừa
      • Thiền Tổ Sư
      • Thiền Mật Tông
    • Thiền Tông
    • Thiền Nam Tông
    • Khóa Tu Thiền – Niệm Phật
    • Hỏi Đáp
  • Kinh
    • Phạn Ngữ/Hán Tạng
    • kinh Pali
    • Nghe đọc kinh
    • Giảng Giải Kinh
  • Luật & Luận
    • Luận
    • Duy Thức Luận
    • Thắng Pháp
    • Luật
  • Ăn Chay
  • Tâm Linh
    • Tâm linh ngoại cảm
    • Tâm linh và Phật giáo
  • Kim Cang Thừa
  • Suy ngẫm
  • Phật Học
    • Kiến thức cơ bản
    • Khái niệm cốt lõi
    • Phật Giáo Việt Nam
    • Khoa Học và Phật Giáo
    • Lịch sử Phật Giáo
  • Sách
    • sách thiền Đại Thừa
    • Thiền Tông
    • Sách về Niệm Phật
    • sách thiền Nam Tông
    • sách Kim Cang Thừa
    • Sách Tổng hợp
    • sách hay gợi ý cho bạn
  • Niệm Phật
  • Video
    • Phật Giáo Video
    • Thiền Học Video
  • Hỏi Đáp
  • Sức khỏe – Ẩm thực

© 2019 Thienphatgiao.org

Welcome Back!

Login to your account below

Forgotten Password?

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.

Log In

Add New Playlist